Có Hình Phận Hồng Vệ Binh - Thân phận con người Trung Quốc trong Cách mạng Văn Hóa Vô sản

Phận Hồng Vệ Binh (Born Red – tác giả Cao Nguyên – 1987 - NXB Đại học Stanford)



Lời bình (1)

Câu chuyện của Cao Nguyên dẫn chúng ta đến những năm đầu của Đại cách mạng văn hóa Vô sản của Trung Hoa. Có thể so sánh với nhật ký của Anne Frank, về những khoảnh khắc đậm tính nhân văn trong một thế giới không có tình người. Trải nghiệm không bao giờ quên được của Cao, với vai trò là một Hồng Vệ Binh (HVB) trong Cách mạng Văn hóa (CMVH) dẫn chúng ta theo một vòng xoáy chính biến, hàng triệu thanh niên trở thành những sứ giả của sự bất ổn. Qua con mắt của Cao, chúng ta sẽ thấy những mưu đồ chính trị, lợi dụng lý tưởng cao đẹp ban đầu, để rồi xâu xé lẫn nhau, suýt đưa nước Cộng hòa Nhân dân vào một cuộc nội chiến mới, một cơn thịnh nộ mà không chuyên gia phân tích nào có thể lý giải được.

Khởi nguồn của CMVH có thể được coi là bắt đầu khi Mao Trạch Đông nhận ra là CHND Trung Hoa vào giữa những năm 1960 đang chệch hướng khỏi con đường XHCN. Mao đã luôn là lãnh tụ tối cao từ khởi đầu cuộc nội chiến hồi những năm 1930, và là người vạch đường lối cho giai cấp nông dân vô sản đấu tranh dành quyền lực. Sau khi giành quyền lực, Mao không chỉ là chủ tịch nước, mà còn coi bản thân là người bảo vệ những tư tưởng, lý luận mà cuộc cách mạng đem lại.

Một cuộc khảo sát vào giữa những năm 1960 do Mao chỉ đạo, đã đem lại một kết quả không vừa ý. Đời sống văn hóa nhân dân còn phụ thuộc vào truyền thống và không theo cách mạng. Giáo dục cho tầng lớp trí thức được coi trọng hơn tầng lớp công nông. Nội bộ Đảng tham nhũng và ích kỷ. Những chương trình phúc lợi mang lại nhiều lợi ích cho thành thị hơn nông thôn, trong khi vùng nông thôn được coi là cái nôi của cách mạng Trung Quốc. Nếu làm ngơ các điều trên, Mao sợ rằng chủ nghĩa tư bản sẽ một lúc nào đó lén lút, âm thầm trở lại, và cuộc đấu tranh công nông trở nên vô nghĩa.

Gia đình của Cao trở thành một trong những mục tiêu đầu tiên của CMVH. Bố của Cao, một lão thành cách mạng bị HVB tấn công và sỉ nhục tàn tệ khi mà cuộc CMVH bắt đầu. Ông bị phán tội để ý thái quá đến kinh tế gia đình mà bỏ quên đấu tranh giai cấp, bỏ quên nhiệm vụ của một quan chức nhà nước.

Trong lúc CMVH diễn ra, Mao thường xuyên tuyên bố rằng: “Không thể xây mới mà không đập bỏ cái cũ”, và nó trở thành kim chỉ nam cho sự hủy hoại văn hóa của Trung Hoa, và là sự buộc tội cho vô số nạn nhân. Mỉa mai thay, CMVH chỉ đập cái cũ khá nhiều, nhưng không xây mới thêm được chút nào. Một cuộc cách mạng được xây dựng bởi bạo lực và tính thù địch, thật sự đi chệch với ý tưởng và hy vọng chống lại chủ nghĩa xét lại của Mao.​




Lời nói đầu của Cao Nguyên

Một trong những thiệt hại mà CMVH đã đem lại cho tôi chính là quyển nhật ký của mình. Trong một cuộc ẩu đả tại trường trung học của tôi, giữa lúc hỗn loạn đó, nó đã không cánh mà bay. Nên cũng có thể nói rằng những gì tôi cảm thấy, nhìn thấy, nghe thấy và nghĩ đến thời đại đó đã là dĩ vãng.

Những dòng dưới đây xin cam đoan là thật, và mỗi khi tôi nhớ lại chúng, cảm giác như mới ngày hôm qua, ngoại trừ những lời đối đáp, và tên của những người trong câu chuyện của tôi đều được đã được đổi tên khác. Với tên của mình, sau CMVH, tôi đã đổi tên từ Cao Kiến Hoa sang Cao Nguyên, âu cũng là có chút đặc biệt, vì tôi sinh ra ở cao nguyên tỉnh Hà Bắc.

Tôi xin gửi lời cám ơn và xin lỗi chân thành nhất đến những kiếp người đã trải qua cuộc CMVH, học sinh, thầy cô, giáo viên, công chức và gia đình mình.​

(Còn Tiếp)

Phần 1
Phần 2
Phần 3
Phần 4
Phần 5
Phần 6
Phần 7
Phần 8
Phần 9
 
Sửa lần cuối:
34. CHẠY TRỐN

Tôi từ Linh Thọ trở về vào một buổi chiều giữa tháng 10, đi bộ theo đường tắt quen thuộc từ bến xe buýt đến trường, dọc theo bức tường thành phố. Bất chợt tôi thấy có vài người đội mũ sắt và cầm súng trường đứng dọc con đường bên ngoài cổng nhỏ của bức tường thành phía bắc. Lưỡi lê tuốt trần trên đầu súng lấp lánh dưới nắng thu. Quân ta giờ đang có súng thật! Hào hứng, tôi bắt đầu chạy xuyên qua bụi cây mọc um tùm trên lối lên hành lang trên thành. Khi đến gần, tôi kinh hãi nhận ra rằng đây không phải là người của chúng tôi. Không có một chiếc băng tay Hồng Kháng Quân nào.

Trạm canh phòng của chúng tôi nằm dọc trên đường đã bị bỏ hoang từ bao giờ. Cái đèn rọi khổng lồ mà chúng tôi đã lắp đặt vẫn còn đó, nhưng lá cờ Hồng Kháng Quân không còn tung bay nữa. Giáo và kiếm nằm la liệt khắp nơi như thể vừa bị vất xuống đất vài phút trước. Tôi mò xuống đường hầm và cũng thấy trống rỗng luôn. Điều gì đã khiến phe tôi, những người nổi dậy có ý chí mạnh mẽ từ bỏ vị trí quan trọng này?

Qua đường hầm đến cái ao lớn sau trường, tôi chui ra và chạy ngang qua khuôn viên trường. Một lượng lớn thành viên Hồng Kháng Quân đã tụ hội dưới hàng liễu trước tòa nhà giáo viên. Sắc mặt của họ như nói với tôi rằng một cái gì đó đáng sợ đã đã xảy ra. Lữ đoàn trưởng của tôi, anh Lôi Đỉnh, thực hiện một bài phát biểu ngắn gọn. "Thưa các đồng chí," anh nói. "Tôi xin gửi lời cám ơn đến các đồng chí, vì đã dũng cảm cản lại bước tiến của đối phương, trong cuộc rút lui chiến lược của chúng ta."

Tôi nghe qua căn nguyên của tai họa này từ các bạn bè cùng phe của mình. Tại một cuộc họp ở Đại lễ đường Nhân dân ngày hôm trước, bác Trần Bá Đạt, người đứng đầu Nhóm Cách mạng Văn hóa Trung ương, đã tuyên bố các phe ủng hộ đơn vị 901 là một "Lũ phản cách mạng thối tha." Nhiều đồng minh của chúng tôi ở Thạch Gia Trang đã bị quây lại và bị sát hại. Một số đã nhảy khỏi các tòa nhà, trên mình khoác theo lá cờ Công xã Lỗ Tấn. Tập đoàn quân 93 đã phong tỏa sông Hô Đà và cắt đứt mọi tuyến đường đến Thạch Gia Trang. Hầu hết các thành viên của Hồng Kháng Quân, dưới sự chỉ huy của anh Mạnh Triết, đã rút lui theo các hướng khác đến Bảo Định. Ở đó, Tập đoàn quân 48 đang hỗ trợ liên minh nổi dậy của học sinh sinh viên mà Công xã Lỗ Tấn đã tôn làm đồng minh, Cơn bão 5/8.

"Kẻ thù của chúng ta đang tràn vào thành phố và thiết quân luật," anh Lôi Đỉnh nói. "Chúng ta sẽ phải rút lui, theo một nhóm nhỏ gồm hai hoặc ba người. Hãy tháo băng tay của các đồng chí ra và để lại tất cả các vũ khí ở đây. Phe địch có trạm kiểm soát ở mọi ngã tư. Sau khi vượt qua được vòng phong tỏa, hãy cố gắng đi về phía bắc để tới Bảo Định. Đó sẽ là cơ sở để chúng ta phục hồi và phản công. Nếu ai trong số các đồng chí không thể đến đó, hãy cố gắng trốn ở đâu đó cho đến khi thời vận thay đổi. Hãy tiết kiệm sức lực, và chờ thời cơ đánh trả. Các đồng chí thân mến, chiến thắng cuối cùng sẽ là của chúng ta!"

Tôi hoang mang, không hiểu sao thế trận đã quay lưng lại với chúng tôi thật nhanh chóng. Chẳng phải bác Trần Bá Đạt đã làm trung gian giữa hai phe sao? Chả phải bác đã đặt tên cho phe ủng hộ đơn vị 901 là Công xã Lỗ Tấn sao? Làm sao bác Trần có thể tùy tiện gán cho chúng tôi cái mác "bọn phản cách mạng thối tha"? Đột nhiên, tôi chỉ còn lại một mình với những câu hỏi đang quay cuồng trong đầu. Mọi người khác đã áp dụng kế cuối cùng trong Ba mươi sáu kế, “Tẩu vi thượng sách”. Tôi đi về phòng của mình ở sân trước tháp chuông. Nếu thằng Nhị Xú còn ở đó, chúng tôi sẽ trốn cùng nhau. Khi bước vào phòng, tôi vấp phải một mảnh gỗ. Nó trông giống như một thước thợ mộc được khắc từ gỗ sồi, nhưng nó có vẻ quá nặng so một cây thước gỗ khi tôi nhặt nó lên. Đó là một thanh trảm mã đao được ngụy trang khéo dưới lớp gỗ. Tôi quyết định mang theo thanh kiếm bên mình.

Nhị Xú không có trong phòng. Có lẽ nó đã không trở về từ chuyến thăm nhà vừa rồi, và vẫn bình yên vô sự trong làng của mình. Tôi nhìn qua những chiếc mũ sắt, áo giáp, kiếm và giáo treo trên tường. Thật tiếc là sẽ phải để hết chúng lại, cùng với bức tranh của Tôn Vệ. Tôi lấy số tiền tìm được ở Bệnh viện Quân đội từ chỗ giấu dưới tấm nệm ngủ của mình và cho vào chiếc túi đeo vai bằng vải bạt, cùng với một con dao găm tự chế và một chiếc quần mới mà mẹ đã may cho tôi. Chần chừ một lúc, tôi bọc thanh kiếm trảm mã đao vào vải bạt để mang theo.

Khi chuẩn bị rời khỏi phòng, tôi nghĩ đến bốn quả lựu đạn trong ngăn tủ đầu giường. Tại sao mình không để lại một cái bẫy cho Quân đoàn Hồng Đông nhỉ? Tôi vặn nắp và rút chốt ra khỏi một quả lựu đạn, cố gắng tìm cách buộc nó vào cửa. Sau đó, tôi chợt nghĩ rằng có thể Nhị Xú sẽ quay lại. Tôi cũng nghĩ về những gì ông ngoại từng nói, rằng ông khuyên tôi đừng tìm kế làm hại người khác. Tôi từ bỏ ý định, cài lại chốt và vặn lại nắp. Tuy nhiên, tôi đã bỏ thêm hai quả lựu đạn vào túi vải. Sau đó, tôi vác cái bọc cồng kềnh của mình và đi ra ngoài.

Tôi có thể đi đâu vào lúc này? Liệu tôi có thể thoát ra khỏi Chính Định với cái túi vải dưới tay của mình? Tôi chợt nghĩ đến người hàng xóm cũ của chúng tôi, Lão Lưu, một tay sĩ quan quân đội đã nghỉ hưu sở hữu ngôi đền đổ nát, nơi mà bố tôi đã từng viết đơn thỉnh cầu của mình. Tôi có thể đi theo đường tắt qua ao sậy và rồi vòng về phía sau trường tiểu học trên đường Dân Chủ để đến nhà ông ấy. Tôi sẽ ở đó trước và sau đó quyết định cách để trốn ra khỏi thị trấn.

Khi tôi đến gần sân chơi của trường tiểu học, có chừng năm người đàn ông mang theo súng ngắn sải bước đến. Sau khi họ đi qua, tôi nghe thấy tiếng hét "Dừng lại!" Họ đã bao vây tôi trước khi tôi có thể xoay xở. "Mở túi dưới tay mày ra!"

“Đây chỉ là một tấm đệm ngủ thôi mà!” tôi nói.

Một người trong số họ giật lấy túi vải và tháo tung ra. "Thằng tiểu tử thối tha!" anh ta chửi khi nhặt thanh kiếm lên. "Thế đây là cái gì?" Tôi bị dính một cú đánh vào một bên đầu, làm tôi quay cuồng choáng váng và ngã xuống. Khi tôi đứng dậy trở lại, một người đàn ông khác đã nhặt lấy tiền, dao găm và lựu đạn từ túi của tôi. Người hét câu đầu tiên chĩa súng lục vào trán tôi. "Mày đang đi đâu và tại sao lại mang theo tất cả những thứ chết người này?" Anh ta vừa nói vừa huơ nòng súng qua lại.

“Các anh đến trường trung học mà tìm xem, có mà đầy mấy thứ này,” tôi nói. "Em chỉ lượm cho vui thôi, em đang trên đường đến gặp một người bạn của bố em." Xung quanh chỗ tôi cũng có một vài người đang nhặt nhạnh, nên tôi cảm thấy an toàn hơn một chút. Người kia đành hạ khẩu súng xuống. Nhét tiền của tôi vào túi, anh ta nói, "Chúng tôi sẽ tịch thu những thứ mà cậu đang mang theo."

"Chừa lại cái quần được không ạ?" tôi hỏi. "Hãy nhìn quần em đang mặc này, gối sờn hết cả rồi."

"Ai mà biết được chiếc quần có phải của cậu không? Có thể đó là đồ của người khác thì sao."

"Tốt thôi. Anh cũng cầm lấy đi. Em đi được chưa ạ?"

"Cậu mơ à? Cậu nghĩ rằng chúng tôi sẽ để cho cậu đi dễ dàng như vậy sao?"

Người đàn ông nói với nhóm của mình, triệu tập một số học sinh nổi dậy để tiếp quản tôi. Tào Lan, lớp trưởng lớp tôi, dẫn theo năm cô gái khác từ lớp 85 thuộc Quân Đoàn Hồng Đông đi đến. "Kiến Hoa đấy à, khỏe không?" Tào Lan nói, ánh mắt giễu cợt của cô ấy nhìn tôi bên dưới chiếc mũ phòng không.

"Lần trước, phe ông đã bắt giữ bọn tôi, và bây giờ ông lại bị chúng tôi quản lý. Có bao giờ ông dám nghĩ rằng mọi thứ sẽ thay đổi chóng mặt như vậy không?"

"Mao Chủ tịch đã nói rằng vạn vật trong vũ trụ không ngừng thay đổi. Đó chẳng phải là quy luật tự nhiên sao." Tôi cố tỏ ra bình tĩnh.

Khiêu khích và chọc ghẹo tôi, các cô gái áp giải tôi đến trại tạm giam của họ tại Sở Thương mại. Lỗ Song, đứng đầu Đội Dạ Hổ, cũng được dẫn vào sân cùng lúc đó. Hai tay của thằng bé bị trói ra đằng sau và máu đang chảy xuống chân. Một học sinh của Quân Đoàn Hồng Đông đã đâm vào đùi nó.

Những kẻ bắt giữ dẫn tôi vào một căn phòng nhỏ có một cái bàn và một vài chiếc ghế đẩu. Tôi nghĩ mình sẽ bị trói và tra tấn, nhưng đã không có chuyện như vậy xảy ra. Họ chỉ đưa cho tôi nội dung bức thư mà Mao Chủ tịch đã viết trong hồi nội chiến, kêu gọi một tên tướng Quốc dân đảng đầu hàng, và bắt tôi đọc to hai lần. Rồi Tào Lan nói: “Đã đến lúc ông phải đưa ra lựa chọn: hoặc là tên phản cách mạng cứng đầu thối tha, hoặc đứng về phía chúng tôi và trở thành một người tham gia cách mạng đúng nghĩa."

Tôi nghĩ lại Ba mươi sáu kế trong đầu, cố gắng tìm ra một kế có thể áp dụng được. Cái kế "Giả si bất điên" có thể hiệu quả. Tôi bèn tỏ ra hợp tác nhất có thể để có được lợi thế, nở một nụ cười và gật đầu đồng ý với bất cứ điều gì họ nói. Quả nhiên họ có vẻ hài lòng với hành vi của tôi. Vào giờ ăn tối, đám con gái thậm chí còn mang cho tôi bánh màn thầu và giá đỗ xào. Đầu tôi lúc đó vẫn còn thấy đau và bụng không cảm thấy đói, nhưng tôi đã cố gắng ăn thật nhiều càng tốt để làm hài lòng họ nhiều hơn. Sau bữa tối, họ đã để tôi rời đi.

Tôi chạy một mạch đến nhà lão Lưu. Ngoài một số dân quân tự vệ trông có vẻ rắn rỏi đang tuần tra trên đường phố, hầu như không có ai ra ngoài. Tiếng rao "Thịt thỏ hầm đây!" của những người bán hàng rong, từng trở lại đường phố khi Hồng Kháng Quân tiếp quản, đã một lần nữa biến mất. Một lệnh giới nghiêm không chính thức đã có hiệu lực.

Hai vợ chồng lão Lưu, những người ủng hộ đơn vị 901, đón tôi như con ruột. Họ đã điều người con trai đi xuống miền Nam trốn với người thân, vì sợ rằng anh ấy sẽ bị thương trong cuộc chiến phe phái ở thị trấn. Tôi đã ở với họ ba ngày, rồi một thanh niên đeo kính đen và đội mũ lưỡi trai xuất hiện ở cửa. Tôi nhận ra ngay giọng nói trầm ấm của anh Lôi Đỉnh. Anh ấy cũng đương trốn trong thị trấn. Anh muốn đến Bảo Định để tìm Mạnh Triết.

"Ở đây khác gì chờ chết," anh nói. "Chúng ta không được chấp nhận chiến bại. Chúng ta vẫn có sự ủng hộ của nhân dân, cho nên ta phải tiếp tục đấu tranh."

Anh ruột của anh Lôi, một kỹ sư xe lửa, sẽ đi qua Chính Định đêm nay. Cơ hội tốt nhất để anh Lôi Đỉnh trốn khỏi thị trấn là lên chuyến xe lửa của anh trai mình. Anh Lôi Đỉnh muốn tôi hộ tống đến nhà ga, để nếu anh bị bắt, tôi có thể gửi tin báo cho gia đình của anh. “Nếu chúng bắt được anh, chắc anh sẽ chết ở đây luôn,” anh nói một cách thản nhiên. "Chú sẽ giúp anh chứ?"
"Tất nhiên rồi," tôi nói. "Anh là thủ trưởng của em mà lại!"

Sau nửa đêm, chúng tôi đi theo con đường ngoằn ngoèo qua những làn đường hẹp và qua bãi ruộng trống đến cột tín hiệu dọc đường ray. Người báo hiệu là bạn của anh ruột anh Lôi. Lúc 2 giờ sáng, một đoàn tàu chở hàng dài cập bến. Một người đàn ông mặc bộ quần áo bảo hộ lao động thấm dầu mỡ, nhảy xuống từ đầu tàu đương nhả một cột khói trắng. Đó là anh trai của anh Lôi Đỉnh.

"Tập đoàn quân 48 đã phong tỏa Bảo Định để những ai ủng hộ đơn vị 901 không vào được," anh nói. "Họ không dám thách thức bác Trần Bá Đạt đâu. Giờ đến Bảo Định quá nguy hiểm, nên anh khuyên, chuyến tàu này đích cuối sẽ đến Bao Đầu ở Nội Mông. Từ đó, em nên đến Urumqi để ở với chú." Anh Lôi Đỉnh đành đồng ý với kế hoạch đó, mặt thoáng có một chút thất vọng. Hai anh em họ lên xe lửa. Tôi đứng bên đường ray khi đoàn tàu lao vút đi vào màn đêm.

Người nhân viên tín hiệu đường sắt bảo tôi ở lại với anh ta và trở lại thị trấn lúc rạng đông. Nhưng lúc này Chính Định không khác gì một nhà tù, nên tôi không muốn quay lại. Tôi quyết định đến làng của Nhị Xú, cách đó tầm mười cây số về phía bắc. Nếu tôi tìm thấy nó, chúng tôi có thể cùng nhau lẻn vào Bảo Định. Tôi bắt đầu đi bộ qua vùng nông thôn rộng lớn, lấp đầy lỗ mũi bằng mùi khoai lang và cao lương chín. Mặt trời đã lên cao hẳn khi tôi gõ cổng nhà Nhị Xú.​
 
34. CHẠY TRỐN (tiếp)

Nhị Xú tiếp tôi bằng cái trán quấn kín băng và vết bầm tím trên mặt. Nó kể rằng rằng khi trở lại trường, nó không hề biết gì về thế sự đã xoay vần, vào ngày hôm sau khi chúng tôi chạy trốn. Vừa vào đến cổng, thằng Bá Vương và một số đứa khác đã bắt nó, rồi trói tay chân và đẩy Nhị Xú xuống nền xi măng lạnh cóng của nhà tắm trong trường rồi khóa cửa lại. Trong một ngày rưỡi, nó chỉ biết nằm đó và không được cho ăn uống gì. Cuối cùng có đứa em họ, một con bé thuộc Quân Đoàn Hồng Đông, vô tình tìm thấy và thả nó ra.

“Nếu bọn Hồng Đông lại truy bắt tao, đố mà tìm ra được,” Nhị Xú nói và dẫn tôi vào một căn phòng trong nhà của nó. Nó đủn một chiếc bình lớn và một phiến đá sang một bên, để lộ ra một lỗ hổng trên sàn nhà. Chúng tôi men xuống và thấy đó là một căn hầm rộng rãi được trang bị nệm rơm, chăn mền, đèn dầu, và một chồng sách. Căn hầm được nối với một mạng lưới đường hầm phức tạp mà dân làng đã đào trong thời Kháng chiến chống Nhật. "Sao, thấy nơi này thế nào? Trốn cùng tao chứ?" Nhị Xú lúc này nhìn tôi chờ đợi câu trả lời.

"Lẩn trốn kiểu này thì có ích gì?" Tôi nói. "Chúng ta vẫn chưa bị đánh bại đâu, ngoài kia vẫn có rất nhiều người ủng hộ phe ta. Tao nghĩ chúng ta nên đến Bảo Định để tái nhập cùng các đồng đội phe mình."

Sự do dự hiện rõ trên khuôn mặt Nhị Xú. "Tập đoàn quân 93 đang khám xét bất cứ người lạ lai vãng ở khắp nơi, và thậm chí cả Tập đoàn quân 48 không còn chào đón chúng ta vì lệnh của bác Trần Bá Đạt. Tao thà ở nhà còn hơn, tĩnh dưỡng và xem xét tình hình."

"Thì ra mày cũng chỉ là kẻ hèn nhát, y như Tôn Vệ thôi." Tôi thở dài và nói.

Tôi ở nhà Nhị Xú tầm một ngày. Mẹ nó nấu cho chúng tôi một bữa tối thịnh soạn kiểu cơm quê và bố nó mời mỗi đứa chúng tôi một ly rượu mạnh. Trời tối, tôi xin cáo biệt và lại lên đường. Tôi trốn tránh khỏi những người bảo vệ ở nhà ga chỗ đó và lén lên một chuyến tàu ở cuối sân ga. Những toa xe chở đầy nông dân với những bó nông sản lớn, khả năng họ lợi dụng tình hình đang hỗn loạn để tích trữ đầu cơ. Vài giờ sau đó, tiếng ồn ào từ các hành khách đã đánh thức tôi dậy. Chúng tôi đã đến một nhà ga nhỏ, cách Bảo Định vài điểm dừng nữa. Những người lính đi tuần trên xe để soát vé. Chỉ huy của họ nói rằng đám lính này đang hành động theo chỉ thị của Nhóm Cách mạng Văn hóa Trung ương. Họ phải trục xuất bất kỳ ai có ý muốn đến Bắc Kinh để khiếu nại với chính quyền trung ương, hoặc đến Bảo Định từ Thạch Gia Trang. Tất cả những ai có vé đi Bắc Kinh hoặc Bảo Định đều bị thẩm vấn rồi bị đuổi xuống khỏi toa tàu. Những người không có vé, trong đó có tôi, cũng phải xuống.

Những người lính áp giải chúng tôi đến một tòa nhà gần đó, đọc cho chúng tôi nghe những câu danh ngôn của Mao Chủ tịch về kỷ luật thời cách mạng, và nói với chúng tôi rằng mọi người sẽ được đi một chuyến tàu miễn phí về nhà vào ngày hôm sau. Những người lính này khá lơi là việc phòng bị, nên tôi dễ dàng lỉnh đi khi họ hộ tống mọi người lên một chuyến tàu đi về phía nam vào sáng hôm sau. Đến trưa, sau khi đi bộ đến nhà ga tiếp theo, tôi lên chuyến tàu khác đi Bảo Định. Lần này tôi đã vượt qua chốt phong tỏa vào thành phố.

Tôi lướt qua các thông báo dán trên các bức tường của nhà ga Bảo Định, cho đến khi tìm thấy thông báo tôi muốn đọc: "Hỡi các thành viên Hồng Kháng Quân của trường trung học số một Chính Định, hãy tái hợp với đồng đội của các bạn tại trường tiểu học ở đường Chiến Đấu!" Một trăm người ohe Hồng Kháng Quân đang sinh hoạt trong một phòng học ở đó, dưới sự bảo vệ của Tập đoàn quân 48, may là họ đã không từ chối những ai đã đến được Bảo Định. Nhìn thấy những khuôn mặt quen thuộc, đặc biệt là anh Mạnh Triết, tôi cảm thấy mình như một đứa trẻ lạc trở về nhà.

Giao tranh giữa các phe phái ở Bảo Định đã cao trào lên đến mức tiếng súng nổ vang lên suốt ngày đêm. Hầu hết chúng tôi ở lại trường, trong bầu không khí bất an và âu lo. Mỗi ngày, anh Mạnh Triết và thư ký của anh ấy, chị Kim Phong, ra ngoài để thảo luận về tình hình của chúng tôi với đại diện của Tập đoàn quân 48, và trở về với những lời khích lệ để nâng cao tinh thần của chúng tôi. Chúng tôi ai cũng muốn thoát khỏi tình trạng lưu vong này, mặc dù không ai biết chính xác rằng Hồng Kháng Quân sẽ trở lại chiến đấu như thế nào.

Trong số những người lưu vong ở đây, có một thành viên cấp cao là Cơ Kỳ, đứa con gái ruột của cựu Bí thư Đảng ủy Hán Vinh, người đã bức hại bố tôi trước kia. Tôi chưa bao giờ muốn nói chuyện với nhỏ vì ác cảm của tôi với lão Hán Vinh. Sau đó, tôi phát hiện ra rằng nhỏ đã không giống như hấn, bởi vì hắn đã bỏ rơi mẹ con nhỏ và kết hôn với một người phụ nữ khác được vài năm rồi. Tôi dần dà trở thành bạn tốt của Cơ Kỳ và đứa bạn cùng lớp của nhỏ là Tống Anh, một đứa con gái nông thôn luôn có tinh thần lạc quan. Tống Anh từng là bí thư Đoàn của lớp hai đứa, và biết khá nhiều về chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác. “Thất bại của chúng ta nghe có vẻ là một điều tồi tệ, nhưng ít ra nó cũng có phần tốt,” nhỏ nói với tôi. "Nó đã tôi luyện và thanh lọc hàng ngũ của chúng ta."

Tôi lánh ở Bảo Định được một tuần, thì anh Mạnh Triết mang đến cho tôi tin tức về Tam Hỷ. Các bác sỹ tại bệnh viện tỉnh cho biết họ không thể điều trị cho Tam Hỷ được nữa vì vùng thận của nó đã bị hỏng hoàn toàn. Anh Mạnh Triết nghi ngờ rằng, lý do thực sự là phe đang chiếm ưu thế tại bệnh viện đứng về phía Quân khu tỉnh, đang đối địch với tập đoàn quân 48 và ủng hộ Tập đoàn quân 93.

"Sao họ có thể vô nhân đạo như vậy chứ?" Tôi đã nói trong căm phẫn. "Mao Chủ tịch chẳng phải đã nói rằng các bác sĩ và thầy thuốc nên coi chữa bệnh, cứu người đang hấp hối là tuân theo chủ nghĩa nhân đạo của cách mạng sao?"

“Chú nên nhớ, cái người ta đề cao nhất bây giờ là bè phái,” Anh Mạnh Triết nói. "Anh đã tranh luận với họ, nhưng chẳng ai thèm nghe. Giờ mới có được một sĩ quan của Đoàn 48 đồng ý giúp anh xem thằng Tam Hỷ bạn chú được phép trú lại bệnh viện trong thời gian này không."

Tối hôm đó, tôi mượn một chiếc xe đạp và đạp xuyên thành phố để thăm Tam Hỷ. Những con đường tối om đầy ắp những con người tham gia vào các cuộc cãi vã, đánh đấm và rượt đuổi. Thậm chí không ai chú ý đến tiếng súng đôi lúc lại nổ ra. Một số đứa bé chạy lao qua trước đầu xe đạp, buộc tôi phải phanh gấp và ngã khỏi xe, và một chiếc xe buýt dừng lại ngay sát chỗ tôi bị ngã. Những hành khách trong xe nhìn ra ngoài cửa sổ với vẻ mặt khó chịu, còn tay tài xế chửi tôi.

Tam Hỷ đang ngủ trên giường bệnh. Nó ở chung phòng cùng bảy bệnh nhân khác. Khắp người nó được nối với một đống dây rợ và thiết bị y tế phức tạp. Tôi bèn nắm lấy tay nó, giờ trông rõ gầy hơn so với hồi trước. Cảm thấy vậy, Tam Hỷ mở mắt ra. “Kiến Hoa đấy à? Có thật là chúng ta đã bị bại trận không?"

"Không, chúng ta vừa bước vào một giai đoạn mới của cuộc đấu tranh. Tao tin cuối cùng chúng ta sẽ thắng, bởi vì phe ta đại diện cho đường lối cách mạng của Chủ tịch Mao."

"Kiến Hoa à, tao rất nhớ mày và mọi người trong tổ chức." Nó siết chặt tay tôi. "Khi tao nằm đây, mỗi khi cảm thấy cô đơn, tao lại tự an ủi mình bằng cách nghĩ đến những khoảnh khắc chiến đấu vĩ đại đó. Sao tao có thể nằm đây mãi được? Tao thực sự muốn quay lại với chúng mày và tiếp tục chiến đấu."

"Tam Hỷ, mày phải nằm đây để chiến đấu với vết thương của mình, và mọi người ở ngoài kia đang chiến đấu với kẻ thù của phe ta. Tất cả mọi người, không riêng gì mày, chiến đấu vì cùng một mục đích: để bảo vệ đường lối cách mạng của Mao Chủ tịch. Điều tốt nhất mà mày có thể làm lúc này là nghỉ ngơi và hồi phục để rồi trở lại tham gia cùng bọn tao. Mày thật sự không nhớ những gì Mao chủ tịch đã nói khi Người đến thăm một bệnh viện sao?"

"Hãy tĩnh dưỡng và tận dụng thời gian để hồi phục? " Tam Hỷ trả lời, trên môi nở một nụ cười yếu ớt.

Khi tôi kể cho Tam Hỷ nghe về những chuyến phiêu lưu mới nhất của mình, mặt nó dường như hơi hồng hào hơn một chút. Chúng tôi nói chuyện cho đến khi một y tá chen ngang và nói rằng tôi đang làm nó mệt hơn. Tôi hứa sẽ đến thăm nó hàng ngày, miễn là tôi còn ở Bảo Định. Tôi đã giữ lời hứa của mình. Mỗi tối, tôi sẽ mua một ít trái cây và đến bệnh viện. Hai thằng sẽ chém gió và tấu hài với nhau trong lúc ăn trái cây.

Trong khi đó, tình thế của lực lượng Hồng Kháng Quân ở Bảo Định càng trở nên bấp bênh hơn. Những đồng minh trong Tập đoàn quân 48 đã cho anh Mạnh Triết biết rằng, vì áp lực từ Nhóm Cách mạng Văn hóa Trung ương và từ chính bác Trần Bá Đạt, họ không thể che chở cho chúng tôi được nữa. Các phe phái được hỗ trợ bởi Quân đoàn 48 bắt đầu thúc giục chúng tôi và các đồng minh, những ai trốn được khỏi Thạch Gia Trang, phải rời đi. Họ thậm chí còn diễu hành qua các đường phố và hô to: “Nhiệt liệt tiễn đưa các đồng chí Công xã Lỗ Tấn về Thạch Gia Trang để tiến hành cách mạng!”

Chắc chắn chúng tôi sẽ phải rời đi. Anh Mạnh Triết liền tổ chức một cuộc thảo luận cực kỳ xúc động và rõ lâu, về việc phải làm gì tiếp theo. Một số người nói rằng chúng tôi nên đi đến dãy núi Thái Hành để tiến hành chiến tranh du kích. Anh Hướng Thắng ủng hộ đường lối này và nói rằng, "Chúng nó đã giết nhiều đồng đội của chúng ta. Chúng ta không nên nuôi chút hy vọng nào rằng chúng sẽ để chúng ta được toàn mạng." Những người khác nói rằng chúng tôi nên quay lại Chính Định và hoạt động ngầm. Tống Anh nhiệt tình ủng hộ kế hoạch này. Nhỏ nói rằng mình ấy đã giấu một chiếc máy in rodeo, mực và giấy dưới sàn nhà trong phòng ký túc xá của mình; những cái này có thể dùng để tuyên truyền vận động quần chúng nổi dậy. "Đây chính là cách mà những lớp ông cha C.ộng sản của chúng ta đã thực hiện, dưới chế độ phản động của Tưởng Giới Thạch. Chúng ta nên học hỏi từ họ." Cuối cùng, chúng tôi đã đạt được một sự thống nhất: các thủ lĩnh của Hồng Kháng Quân sẽ lên núi với một nhóm nhỏ để tránh bị Quân Đoàn Hồng Đông bắt giữ, trong khi những người còn lại của phe chúng tôi sẽ quay trở lại Chính Định để hoạt động ngầm. Các đồng chí trong ban lãnh đạo sẽ tiếp tục chỉ đạo chúng tôi từ căn cứ cách mạng ở miền núi.

Anh Hướng Thắng muốn đi lên núi theo ban lãnh đạo nhưng không được được chấp thuận vì đôi chân dính tật của anh ấy sẽ chỉ cản trở mọi người. Điều này khiến anh ấy không vui một chút nào. Khi anh Mạnh Triết thu hồi một khẩu súng lục mà anh Hướng Thắng đã được phát cho trước khi rút lui, rồi bàn giao nó cho tay thư ký của mình, chị Kim Phong, ông anh này đã khóc òa lên như một đứa trẻ.

Tập đoàn quân 48 đã mua cho chúng tôi vé tàu để trở lại Chính Định. Chúng tôi vừa rời khỏi nhà ga thì Nhị Xú xuất hiện tại trường tiểu học. "Mày đang làm cái quái gì ở đây vậy?" tôi hỏi. "Chúng ta đang bị đuổi về nhà đây." Nó nhìn tôi với vẻ ăn năn hối cải trên mặt. "Tao đã quyết định là mình phải tái hợp với đồng đội của mình." Tôi liền nghĩ ngay đến Tam Hỷ. Nó sẽ khổ hơn gấp bội khi chúng tôi rời đi. Tôi liền đưa Nhị Xú đến bệnh viện thăm nó.

Khi chúng tôi đến phòng của Tam Hỷ, nó vừa được khiêng lên giường đẩy. Tôi hỏi một y tá cạnh đó về số phận nó, cô ấy nói với tôi bằng một giọng nghiêm nghị, rằng nó sẽ phải vào phòng mổ để thực hiện một ca phẫu thuật sâu hơn. Tam Hỷ đưa bàn tay run rẩy về phía chúng tôi. Nụ cười yếu ớt của nó biến mất hoàn toàn khi chúng tôi nói rằng cả bọn phải trở về Chính Định. Chúng tôi đã cố gắng an ủi nó bằng cách nói rằng cả bọn sẽ sớm gặp lại nhau khi tình hình khá hơn. Nghe được thế, nó chỉ lắc đầu. Nước mắt nước mũi tèm lem, tôi cay đắng nhìn chiếc giường đẩy đi dọc theo hành lang và biến mất sau một dãy cửa đôi.​
 
35. LÊN VOI XUỐNG CHÓ

Khi đoàn tàu của chúng tôi đi qua ranh giới hành chính của địa cấp thị Thạch Gia Trang, chúng tôi bắt đầu thấy những người lính và dân quân có vũ trang trên mọi sân ga. Càng đến gần thành phố Thạch Gia Trang thì càng nhiều bóng dáng của lực lượng vũ trang hơn. Khi đoàn tàu chạy xuyên qua màn đêm, Nhị Xú, Cơ Kỳ, Tống Anh và tôi ca cẩm về thời vận đã trở nên bất công như thế nào. Tuy chính sách hiện tại kêu gọi một liên minh cách mạng vĩ đại, nhưng người thư ký của Chủ tịch Mao, Trần Bá Đạt, đã đặt cho phe chúng tôi một danh hiệu là lũ phản cách mạng thối tha, Tập đoàn quân 93 đã thẳng tay đàn áp chúng tôi, và ngay cả Đoàn 48 cũng phân biệt đối xử. Không thể hiểu đó là loại liên minh cách mạng vĩ đại kiểu gì nữa? Chúng tôi cứ thế nói chuyện cho đến khi tàu đến gần Chính Định, khi đó cả bọn im lặng.

Hàng trăm dân quân mang theo súng trường và tiểu liên đang đợi trên sân ga Chính Định. Lúc đó trời vừa mưa xong, vì nền đất còn nhiều vũng nước, mũ thép và lưỡi lê lấp lóa ánh sáng. Lực lượng dân quân bước lên tàu theo nhóm để kiểm tra vé. Họ sẽ bắt đi bất cứ ai có dính líu với Công xã Lỗ Tấn ở Thạch Gia Trang. Sau đó, họ ra lệnh cho những ai có vé đi về Chính Định xuống tàu. Vừa bước lên sân ga, chúng tôi đã thấy các thành viên của Công xã Lỗ Tấn xếp hàng ngay trước mũi súng. Với lòng can đảm khi đứng trước lưỡi lê, họ bắt đầu hát theo cách mà các anh hùng cách mạng đã hát trong những phim ảnh tuyên truyền:

Khi tiếng súng nổ ra,
Chúng ta cùng ra chiến trường,
Các đồng chí hãy vững tin,
Và sẵn sàng hy sinh vì lúc này,
Cam tâm hiến dâng sinh mệnh vì cách mạng.

Mọi người đều biết bài hát này. Đó là câu hát của vị tướng bất khả chiến bại Lâm Bưu. Chẳng ai hát nó, trừ khi ta phải đối mặt với tình huống không còn đường lui. Nói cách khác, đó là một bài hát của thế đường cùng. Được truyền cảm hứng bởi nhóm thanh niên anh hùng này, tôi và những đứa bạn đồng hành đã tham gia hát theo. Chúng tôi đã hát đi hát lại bài hát này. Tôi cảm thấy tim mình đập nhịp nhàng theo từng nốt nhạc.

Nhóm dân quân áp giải các đồng minh ở Thạnh Gia Trang lên một số xe tải mui trần và lái đi. Họ cũng bắt đi một số đồng chí từ Chính Định. Chúng tôi dường như bị bỏ lại. Chúng tôi hành quân trở lại trường và hát những bài hát cách mạng. Một vài anh bộ đội trông có vẻ dữ dằn đi sát chúng tôi, nhưng khi chúng tôi rẽ về trường, họ tiếp tục đi bộ về phía trung tâm thị trấn.

Chúng tôi tiếp tục hát đến khản cổ khi bước vào cổng trường. Nhiệm vụ hoạt động ngầm của chúng tôi dường như chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Tôi cảm thấy mình đang nhử địch, chắc chắn kẻ thù sẽ xuất kích khi nghe thấy tiếng hát thách thức của chúng tôi, và tôi đã sẵn sàng chiến đấu với chúng. Tuy nhiên, đám kẻ thù đã không xuất hiện.

Tống Anh nói rằng nhỏ sẽ về phòng để lấy lại chiếc máy in Rodeo của mình. Nhỏ và hai đứa con gái khác vừa rời đi thì một nhóm nhỏ của các thành viên Quân đoàn Hồng Đông xuất hiện, yêu cầu những người còn lại ngừng hát. Một trận đấu khẩu xảy ra ngay lập tức.

"Đó là quyền của bọn này!"

"Chúng mày không có quyền! Não hỏng hay sao mà không nắm rõ tình thế?"

"Tình thế gì ở đây? Đừng giở trò bắt nạt chúng tôi!"

"Chúng mày thua rồi!"

"Bọn này sẽ giành chiến thắng cuối cùng!"

"Bác Trần Bá Đạt đã nói rằng chúng mày là một lũ phản cách mạng thối tha!"

"Có mà các người thì có ấy!"

"Nếu không hành xử đúng mực, chúng mày sẽ được nếm bàn tay sắt của chuyên chính vô sản!"

"Cười người hôm trước, hôm sau người cười!"

Giữa lúc chúng tôi đang cãi nhau, có ai đó thì thầm vào tai tôi, "Chúng nó gọi quân đội đến kìa. Chúng ta phải rút ngay." Khi tin báo lan truyền trong nhóm của chúng tôi, cả bọn quay trở lại cổng chính song đã quá muộn. Cánh cổng thép đã bị đóng lại. Một số lính canh với tiểu liên trên tay đã đứng bên trong cổng. Khi chúng tôi cố gắng mở một tấm rào thép kế bên, một người lính đã ngăn chúng tôi lại và nói rằng không ai được phép ra ngoài.

Chúng tôi rút lên tầng ba của tòa nhà ban giám hiệu để thảo luận về chiến thuật. Nơi đó vẫn còn đầy những viên gạch vỡ mà chúng tôi đã chất đống ở đó, khi chúng tôi kiểm soát khuôn viên trường. Gạch bây giờ chẳng còn dùng làm vũ khí. Tự nhủ lòng câu nói “Quân tử báo thù mười năm chưa muộn”, chúng tôi quyết định rằng sự điềm tĩnh và kiên nhẫn là vũ khí tốt nhất của chúng tôi trong lúc này.

Có tiếng bước chân trên cầu thang. Năm người lính cầm súng tiểu liên bước vào. Họ nói rằng họ đến từ Sư đoàn 73 và được lệnh khám xét chúng tôi. Tôi chưa bao giờ nghe nói về Sư đoàn 73. Họ giải chúng tôi vào một căn phòng trống ở phía cuối mặt đông của tòa nhà, bắt từng người chúng tôi đi vào hành lang để khám vũ khí, sau đó dẫn chúng tôi xuống hành lang đến một căn phòng khác ở đầu phía tây. Không tìm thấy gì, họ bảo chúng tôi không được phép rời khỏi tòa nhà và bỏ đi.

Đã quá nửa đêm. Chúng tôi chán nản ngồi trên sàn, quá mệt mỏi để nói chuyện, quá căng thẳng để chợp mắt. Những tiếng la hét vang lên từ hướng sân tháp chuông đánh thức cả bọn dậy. Đứng ở hiên sau của tòa nhà ban giám hiệu, chúng tôi có thể thấy có ánh sáng phát ra từ một căn phòng phía đối diện khoảng sân tối tăm. Có nhóm người tụ tập trước cửa, thậm chí có một số người đang lia đèn pin qua lại. Một cuộc đấu khẩu đã nổ ra.

"Con đĩ phản cách mạng! Sao mày dám giết đồng chí của bọn tao?"

"Đây là quyền tự vệ chính đáng! Đừng có đụng vào tôi, đồ phản cách mạng!"

Cơ Kỳ, Nhị Xú và tôi đều nhận ra giọng nói của Tống Anh, cả bọn cùng lao xuống cầu thang để giải cứu cô ấy. Dưới tầng 1, một nhóm học sinh Quân đoàn Hồng Đông đứng đó vung giáo, kiếm, súng ống và dùi cui đối đầu với chúng tôi. Bá Vương, Song Căn, Hướng Vân, Tào Lan và Tùng Phương đều ở đó. Riêng thằng Bá Vương có ba quả lựu đạn buộc vào thắt lưng.

"Kiến Hoa, tôi tưởng ông đã ăn năn hối cải rồi chứ?" Tào Lan quở trách. "Đừng tưởng chúng tôi sẽ nhẹ tay một lần nữa."
“Để cho chúng tôi gặp Tống Anh!” tôi nói.

"Tiếc thay, không thể được. Anh Phương Bảo đã yêu cầu chúng tôi phải ngăn không ai được rời khỏi tòa nhà này."

"Tôi cầu xin các người đấy, hãy để chúng tôi đi," tôi van nài.

Tào Lan nói: “Nó đã làm một đồng đội của chúng tôi bị thương bằng một cuộn giấy in. Những đứa ngông cuồng như nó phải bị trừng phạt."

“Làm ơn đừng đánh bạn Tống Anh,” Cơ Kỳ nói. "Muốn trừng phạt thì tôi xin gánh thay."

Thằng Bá Vương chĩa thanh kiếm Nhật về phía chúng tôi và nói: “Cút lên lầu ngay, bọn phản cách mạng thối tha! Chúng mày bây giờ không khác gì một lũ rùa trong vại. Đừng hòng mong đợi một cuộc đàm phán."

Hai bạn gái đi cùng Tống Anh bị giải về. Họ lên lầu với chúng tôi và kể cho chúng tôi nghe, rằng bọn học sinh Quân đoàn Hồng Đông đã mai phục trong phòng của Tống Anh, lục soát căn phòng và tìm thấy chiếc máy in Rodeo. Một đứa của Quân đoàn Hồng Đông đã tát vào mặt nhỏ, và để trả miếng, Tống Anh đã nhặt tấm bìa cứng bằng thép và đập vào đầu nó. "Chúng ta phải giải cứu bạn ấy," một trong những nhỏ đi cùng nói. "Nếu không, có thể chúng nó sẽ đánh chết Tống Anh!"

Cơ Kỳ bắt đầu hát một cách buồn bã bài “Chòm sao Bắc Đẩu”, bài hát mà các thành viên Quân đoàn Hồng Đông đã hát trong cái đêm tuyệt thực đầu tiên của họ trong sân của ban chỉ huy quân sự huyện. Dần dà, xúc động quá, chúng tôi liền chuyển sang bài “Quốc Tế Ca”. Tiếng hát của chúng tôi vang vọng khắp khuôn viên tối tăm. Tôi nhặt chiếc kèn loa vất xó ở bền hiên nhà và lên đưa lên môi hát.

Một số bóng người đang lang thang bên dưới hét lên, bảo chúng tôi dừng lại. Nhiều bóng người khác chạy khắp sân và xung quanh tòa nhà. Chúng tôi đổi bài hát, sang ngâm bài thơ "Tây Giang Nguyệt" của Chủ tịch Mao, mô tả trận chiến với Quốc dân đảng ở núi Tỉnh Cương Sơn:

Giặc bao vây kín cả muôn trùng
Ta vẫn vững vàng chẳng núng


Tiếng bước chân nện xuống nền cầu thang rầm rầm như mưa đá. Chúng tôi vội vã lui về căn phòng ở cuối hành lang phía đông và đan tay nhau. Nếu chúng muốn bắt ai, chúng tôi sẵn sang cản lại. Tay trong tay, chúng tôi tiếp tục hát. Cơ Kỳ ở bên trái tôi. Nguyên Tiếu, một thành viên của Đội Dạ Hổ, ở bên phải tôi. Nhị Xú ở bên đối diện. Khi mắt chúng tôi chạm nhau, tôi cảm thấy nó đang sợ. Tôi ném cho nó một cái gật đầu cổ vũ. Nó cũng gật đầu đáp lại.​
 
35. LÊN VOI XUỐNG CHÓ (tiếp)

Tiếng bước chân của kẻ thù đã đến hành lang tầng ba. Ông Phương Bảo xuất hiện ở ngưỡng cửa, thằng Mỹ Hồ ở ngay sau. Nhìn chúng tôi một cách khinh bỉ, ông Phương Bảo lấy một mảnh giấy từ túi áo ra và bắt đầu đọc. Đó là một danh sách đen, và cái tên đầu tiên là Duy Trung, thủ lĩnh của đội xung kích thứ ba. Ông Phương Bảo liền khoát tay, ngay lập tức những đứa theo sau vọt lên hòng bắt giữ anh Duy Trung. Chúng tôi cố chặt vòng tay của mình.

Phe địch cố kéo chúng tôi ra, nhưng cả bọn co cụm lại ngay lập tức. Ông Phương Bảo liền ra lệnh cho thêm người vào. Như một lũ sói hung hăng, chúng đập vào lưng, giật tóc, và đánh chúng tôi bằng cán giáo. Chúng tôi đã cố gắng hết sức để vòng tay của mình không bị bẻ gãy.

Một cú kéo mạnh tay làm tôi mất thăng bằng. Tôi bị xô đẩy, ăn các cú đấm đá và những câu chửi rủa dọc theo hành lang đến căn phòng ở cuối phía tây. Cơ Kỳ, Nhị Xú và các đồng đội khác cũng theo tới đó, nhưng Nguyên Tiếu, thành viên Đội Dạ Hổ và Duy Trung, người đứng đầu đội xung kích thứ 3, thì không.

Thằng Bá Vương tiến tới. "Nhị Xú đấy à, mày dám to gan chạy trốn mà không có sự cho phép của cán bộ quản lý sao?". “Không chạy thì chết đói à?” Nhị Xú lạnh lùng nói. "Láo Toét!" Bá Vương liền tát vào mặt thằng bạn tôi. Máu chảy ra từ mồm Nhị Xú.

Bá Vương quay sang tôi, như một con hổ đói đang ngắm con mồi của nó. "Và Kiến Hoa, cái mánh khóe nhỏ vừa rồi cũng không cứu được mày đâu," nó nói. "Đồ phản cách mạng chết tiệt!" "Ai là phản cách mạng cơ? Bọn này mới là những người cách mạng chân chính!" tôi tức tối đáp lại. "Giải nó đi!" Bá Vương ra lệnh. Hai thằng bé đứng sau bước tới và nắm lấy hai cánh tay tôi.
Ông Phương Bảo và Mỹ Hồ lại xuất hiện. Thằng Mỹ Hồ cố tránh cái lườm của tôi. Còn ông Phương Bảo thì mỉm cười với tôi. "Kiến Hoa à, vẫn chưa muộn để xem xét lại tình thể của chú và trở về phe cách mạng chân chính đâu." Ông ấy quay sang Bá Vương và nói: "Hãy cho đứa em của anh một cơ hội." Hai thằng bé kia thả tay tôi ra. “Nghĩ kỹ đi,” Ông Phương Bảo nói rồi dẫn bọn kia ra ngoài. Lòng thương hại của ông Phương Bảo làm tôi ghê tởm. Chưa bao giờ tôi ghét ông anh này đến như thế. Tôi cũng tự trách mình vì đã không đủ nhanh để bật lại.

Chúng tôi đếm lại hàng ngũ của mình và thấy thiếu mất mười ba người đồng đội. Chúng tôi đã mất những ai đã nằm trong danh sách của ông Phương Bảo trong cuộc ẩu đả vừa rồi. Còn chúng tôi, trầy trụa, bầm tím và đau đớn, chỉ biết lặng lẽ đứng trong mái hiên. Đâu đó trong khoảng sân tối tăm đó, các đồng đội của chúng tôi đang bị thẩm vấn và tra tấn.

Tôi cảm thấy phải đi tiểu nên đã đi xuống cầu thang. Đứa bạn cùng lớp của tôi, Hướng Vân, đã chặn tôi lại bằng một ngọn giáo.

"Ai cho phép ông rời khỏi tòa nhà?" nó hỏi.

"Tôi muốn đi tiểu."

"Ông có nhịn được không?"

"Không, tôi sắp đái ra quần rồi."

"Nếu vậy, ông có thể đi. Ông biết rõ là chúng tôi luôn tuân theo tinh thần nhân đạo của cách mạng." Hướng Vân và một con bé lính canh khác đi theo tôi đến nhà vệ sinh gần nhất, chĩa giáo vào lưng tôi. "Đừng lo. Tôi sẽ không trốn đâu," tôi nói. "Sao tôi có thể rời đi trong khi nhóm của bà đang bắt giữ và tra tấn đồng đội của chúng tôi cơ chứ."

"Họ chỉ đang nhận được sự cải huấn thôi."

"Tôi mong cái tinh thần nhân đạo cách mạng của Quân đoàn Hồng Đông sẽ được áp dụng với họ."

"Chúng tôi biết phải làm gì mà."

Họ đợi bên ngoài trong khi tôi đi vệ sinh, hộ tống tôi trở lại và sau đó đưa thêm một vài người nữa vào nhà vệ sinh, từng người một.

Cái lạnh của cuối thu buộc hầu hết chúng tôi phải vào trong nhà, nhưng Cơ Kỳ đã ở ngoài hiên cả đêm. Không có một ai trong số chúng tôi chợp mắt được. Vào lúc bình minh, Cơ Kỳ đến và nói với chúng tôi rằng đám lính canh đã rời đi. Chúng tôi đi xuống cầu thang và đi vào sân trước tháp chuông. Bầu không khí có vẻ bình lặng, như thể đã không có chuyện gì xảy ra. Vật thể đang chuyển động duy nhất là dáng của ai đó đang bò trên mặt đất ở phía bên kia của sân. Đó là Nguyên Tiếu, mặt nó đầy máu và sưng húp, gần như không nhận ra được. “Chúng nó đã đánh tôi trong một thời gian khá dài,” nó nói. "Chân tôi đau đến nỗi không thể tự đứng dậy được." Chúng tôi tìm thấy những người khác, mỗi người ở một phòng khác nhau. Một số bị trói bằng dây thừng và nằm trên sàn nhà. Một số khác thì bị treo lên xà nhà. Duy Trung đã bị trói vào ghế và nhét giẻ vào miệng. Việc phát hiện ra Tống Anh có lẽ là cú sốc lớn nhất. Nhỏ nằm bất tỉnh trên sàn nhà trong vũng máu. Quần của nhỏ đã bị lột ra. Áo lót trong bị rách, để lộ ra bộ ngực của nhỏ. Tống Anh đã bị đánh đập dã man đến nỗi toàn thân tím tái. Cơ Kỳ ngay lập tức cởi áo khoác và quấn quanh người Tống Anh. Chúng tôi chuyển nhỏ ấy lên một tấm ván giường và đưa nhỏ đến bệnh viện huyện nhanh nhất có thể. May mắn thay, chúng tôi có nhiều đồng minh ở đó, và họ hứa sẽ cố gắng hết sức để cứu Tống Anh. Chúng tôi đợi ở bệnh viện cho đến giữa buổi sáng, khi một bác sĩ thông báo với chúng tôi rằng Tống Anh đã tỉnh lại. Bác sĩ đấy cho biết thêm những kẻ tra tấn nhỏ đã nhét cả tất bẩn và cành cây vào âm đạo, khiến nhỏ bị ngất do chảy máu nhiều.

Nhiệm vụ tiếp theo cần làm là hộ tống những người đồng đội bị thương của chúng tôi về nhà. Chúng tôi băng bó cho họ và đưa họ ra ga tàu và bến xe buýt một cách chậm rãi. Những ai còn khỏe mạnh sẽ đỡ lấy những người bị thương, cõng những người yếu nhất trên lưng. Cơ Kỳ đang giúp Nguyên Tiếu, tay nữ vòng qua eo nam và tay nam quàng qua cổ nữ. Có vẻ Cơ Kỳ dường như không hề thấy e ngại về việc giúp đỡ một người khác giới theo cách thân mật như vậy.

Phe chúng tôi quyết định rút khỏi Chính Định một lần nữa. Chỉ có Cơ Kỳ sẽ ở lại, để trông chừng Tống Anh cho đến khi xuất viện. Một số người trong chúng tôi đã đến nói lời tạm biệt với Tống Anh. Bây giờ nhỏ đang trong tình trạng quấn băng từ đầu đến chân, chỉ lộ ra đôi mắt sưng húp. Khi tôi hỏi có đau đớn quá không, Tống Anh chỉ thì thầm, "Không đau mấy đâu." Nhỏ nói thêm: "Thế hệ chúng ta, đã lớn lên trong hòa bình và hạnh phúc, chưa bao giờ trải qua sự tra tấn. Khi tớ đọc tác phẩm Vách Đá Đỏ, tớ không thể tưởng tượng được làm sao con người ta có thể tàn bạo như vậy. Bây giờ tớ đã hiểu ra." Tống Anh khuyên chúng tôi hãy tự tin và kiên trì trong cuộc đấu tranh của mình. Cơ Kỳ cuối cùng phải bảo nhỏ ngừng nói để tĩnh dưỡng.

Nhị Xú mời tôi về nhà nó. Nhưng giờ ngôi làng nó sẽ không tiếp đón một người lạ. Phe ủng hộ Tập đoàn quân 93 ở đó, một lực lượng bé tí tẹo, nhưng giờ đây với niềm kiêu hãnh chiến thắng, đã phát hiện ra tôi. Lãnh đạo của nó, một tay giáo viên trường làng, đã buộc tội gia đình của Nhị Xú chứa chấp một tên phản cách mạng. Bố của Nhị Xú, vốn là một người nông dân ngoan ngoãn biết điều, không muốn gặp rắc rối. Ông ấy chắc hẳn đã cảm thấy rất khó để nói thẳng là tôi nên rời đi, vì vậy thay vào đó, ông bố đã mắng vào mặt thằng Nhị Xú. Tôi hiểu ra thông điệp và rời đi một mình. Nhị Xú chạy theo tiễn tôi, rối rít xin lỗi. Tôi nói rằng mình đã hiểu hoàn cảnh gia đình của nó và không hận bố nó chút nào cả. Hai thằng chúng tôi chia tay trên cánh đồng.​
 
36. SỐNG MÒN

Tôi dành hai tuần ở nhà bên Linh Thọ, giúp Chỉ Hoa nấu ăn cho gia đình. Bệnh của ông ngoại trở nên tồi tệ hơn khi mùa đông bắt đầu. Cơn ho của ông không ngừng, và chúng tôi phải làm sạch bô nhổ của ông ngoại nhiều lần trong ngày. Bố tôi dành cả ngày để tiếp các điều tra viên và kiểm điểm bản thân. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi tin tức về công bố phục chức của ông. Cho dù đã cố gắng tập trung vào việc nhà, tôi không thể gạt bỏ đi suy nghĩ về lý tưởng còn dang dở của Hồng Kháng Quân ra khỏi tâm trí của mình. Tôi nhớ các đồng đội của mình kinh khủng. Tôi có một thôi thúc không thể cưỡng lại được, đó là quay trở lại Chính Định, cái ngục tối mà tôi vừa mới trốn khỏi. Cuối cùng, tôi đã quay trở lại.

Căn phòng tôi đã ở cùng với ba thằng bạn cùng lớp giờ trông trống trơn và đầy bụi. Tất cả đồ đạc của tôi, ngoại trừ một cái chăn bẩn, đã có biến mất. Tôi chuyển đến một văn phòng để ở cùng với một số thành viên Hồng Kháng Quân lớn tuổi hơn, họ cũng đã trở lại. Chúng tôi thỉnh thoảng tổ chức các cuộc họp bí mật trong thị trấn và ngấm ngầm rải truyền đơn vào ban đêm. Chúng tôi cũng đã cố gắng liên lạc với các nhà lãnh đạo đang lưu vong kia nhưng không có phản hồi. Chúng tôi không dám tin rằng họ đã bị bắt. Cuộc chiến có thể kéo dài thêm vài năm nữa, nhưng một ngày nào đó anh Mạnh Triết sẽ ca khúc khải hoàn, đi từ trên núi xuống để chiếm lại khuôn viên trường.

Chúng tôi đã sai lầm. Quân đoàn Hồng Đông đã lần ra anh Mạnh Triết, chị Kim Phong và những người khác, bắt giữ và tống giam họ tại Sở Thương mại tỉnh. Tôi tình cờ nghe được đám học sinh của Quân đoàn Hồng Đông khoe khoang về việc chúng đã giải anh Mạnh Triết vào trong sân và đánh anh đến bất tỉnh chỉ bằng một phát gậy.

Giấc mơ về sự trở lại của chúng tôi đã tan thành mây khói, chúng tôi từ bỏ các hoạt động bí mật và tìm những cách khác để giết thời gian. Một số đứa bạn cùng phòng của tôi đã làm thơ và luyện thư pháp; những người khác thì tập điêu khắc trên gỗ hình đầu Mao Chủ tịch. Tôi lại tiếp tục với sở thích cũ của mình là mày mò chế tạo radio. Cứ vài ngày một lần, tôi đi vào trung tâm thị trấn để mua linh kiện và nghiên cứu sơ đồ mạch điện tử mua được từ các hiệu sách.

Hầu hết các thành viên của Quân đoàn Hồng Đông từ sở Thương mại tỉnh đã trở lại trường học, tin tưởng rằng Quân đoàn Hồng Đông đã bị tiêu diệt vĩnh viễn. Tôi đã cố gắng hết sức để tránh chạm mặt những kẻ thù cùng lớp của mình. Ngoại trừ những nụ cười khinh bỉ trong phòng ăn hàng ngày, không ai đến sách nhiễu tôi cả.

Sư đoàn 73 đã cử hai sĩ quan đến trường để tuyên dương chiến thắng của Quân đoàn Hồng Đông. Lúc đó tôi mới biết đơn vị xa lạ này là chuyên pháo phòng không, và các cố vấn của họ vừa trở về từ Việt Nam. Họ đóng trụ sở tại Thạch Gia Trang, cùng với Tập đoàn quân 93. Cả hai vị đại diện đều là bác sĩ quân y, là một cặp kỳ lạ. Một người cao và gầy, với khuôn mặt nhợt nhạt kiểu thư sinh, còn người kia vạm vỡ và có râu. Tất cả những gì họ làm trong suốt thời gian ở trường là đeo súng lục và đi dạo.

Nhiều học sinh của phe Hồng Kháng Quân trở lại vào cuối tháng 11. Nhiều người trong số họ đã đưa ra lời tuyên bố xin rút lui khỏi Hồng Kháng Quân. Một số đã gọi tổ chức của chúng tôi là "Hồng Kháng Quân thối tha". Một số đã xin gia nhập Quân đoàn Hồng Đông. Tôi bắt đầu ghét những kẻ thừa nước đục để thả câu này, thậm chí còn hơn cả Quân đoàn Hồng Đông, dẫu rằng tôi biết họ đang phải hướng theo chiều gió chỉ để tồn tại.

Tôi tình cờ gặp Song Căn dưới hàng liễu vào một buổi chiều sau đó. Nó nở một nụ cười không có vẻ ác ý, nên tôi ngập ngừng mỉm cười đáp lại. "Kiến Hoa, mày còn chờ cái gì nữa?" Nó nói và chỉ vào các tiểu tự báo về việc rút lui trên tường. "Ai nắm được thức thời mà theo, đấy ắt là một chính nhân quân tử."

Tôi trả lời một cách cẩn trọng. "Hiện tao đang tập trung vào nghiên cứu linh kiện bán dẫn. Chắc chắn tao sẽ để ý tới lời khuyên của mày."

"Sớm muộn gì mày cũng sẽ phải theo thôi. Sớm muộn!"

"Tao sẽ cân nhắc điều đó."

" Chờ vạn năm quá lâu - Tranh sớm chiều cho kịp", Song Căn trích lại lời của một bài thơ do Mao chủ tịch viết.

Sau đó Song Căn tiếp cận tôi nhiều lần nữa với cùng một kiểu đề nghị như vậy. Ban đầu, nó dường như hành xử một cách thiện chí. Rồi bắt đầu ra vẻ đe dọa. Thái độ càng lúc càng hung hăng của Song Căn chỉ khiến tôi càng trở nên bướng bỉnh hơn, mặc dù tôi chưa dám bảo thẳng với nó.

Một buổi sáng nọ, tôi vẫn còn đang nằm trên giường và đắm chìm trong cuốn hướng dẫn lắp đặt radio thì có tiếng gõ cửa. Tôi đứng dậy mở ra thì thấy bố tôi đang đứng bên ngoài với Tào Lan. “Nhờ có cô thiếu nữ tốt bụng này, cuối cùng bố cũng tìm thấy con,” bố tôi nói. "Trường của các cháu lộn xộn như vậy, quả nhiên khó mà tìm được người."

Tào Lan bỏ đi không nói một lời khi bố tôi bước vào. Ông mặc một chiếc áo khoác ngoài màu đen có cổ lông cáo, đó là chiếc áo khoác mà bố tôi hay mặc vào mỗi mùa đông, kể từ khi còn là huyện trưởng bên Thủy Nguyên mười lăm năm trước. Giờ bố tôi trông mảnh khánh, đôi mắt bố trông vẻ lơ mơ và mái tóc đã bạc trắng. Tuy nhiên, bố tôi dường như đang có tinh thần tốt. “Bố đang trên đường đến Thạch Gia Trang để tham gia một lớp học tập Tư tưởng Mao Trạch Đông,” ông nói. "Bố chợt nghĩ rằng, hay là ghé qua chỗ con để xem tình hình."

“Con ổn mà,” tôi nói. "Giờ con có rất nhiều sách về radio để đọc."

Lông mày của bố tôi chợt cau lại. "Tính ra con nên đọc các tác phẩm của Mao Chủ tịch và những thứ hữu ích khác thì tốt hơn. Con đã đọc bài xã luận trên báo Hồng Kỳ về việc thành lập một liên minh cách mạng vĩ đại chưa?"
"Giờ liên minh được với ai hả bố? Bác Trần đứng đầu Nhóm Cách mạng Văn hóa Trung ương đã tuyên án tử với bọn con, và phe địch đã lợi dụng tình hình để đàn áp phe bọn con không thương tiếc."

"Bố không có ý trách con." Giọng bố tôi nghiêm nghị. "Nhưng bố đã nhắc với con từ lâu là không được chống lại Quân đội Giải phóng Nhân dân, và con đã không nghe lời."

Tôi im lặng hoàn toàn. Ông ấy nói tiếp, "Con nên xem xét lại suy nghĩ có hướng tiểu tư sản của mình. Trước đây, con từng là một đứa hiếu chiến, thích đấu tranh bằng vũ lực. Và bây giờ, con đã hoàn toàn vỡ mộng và tránh xa chính trị. Đó không phải là thái độ đúng đắn đâu. Bố nghĩ con nên tiếp cận với các bạn cùng lớp, thừa nhận sai lầm của mình và hòa giải với họ. Họ sẽ đối xử tử tế với bạn."

"Làm sao mà bố biết?"

"Cô bé kia đi cùng bố rất tốt. Bạn ấy đã hứa với bố rằng họ sẽ không đối xử tệ với con nếu con tuyên thệ sẽ rút khỏi Hồng Kháng Quân."

Bố tôi giờ đang vận động hành lang cho Quân đoàn Hồng Đông! Tôi bèn nhìn thẳng vào mắt ông ấy và nói: "Bố à, con không thể từ bỏ các nguyên tắc của mình. Con không tin rằng những người đó sẽ đại diện cho đường lối cách mạng của Mao Chủ tịch. Bố đã bao giờ từ bỏ các nguyên tắc của mình không? Con biết rằng bố sẽ không bỏ. Mà thực ra, bố chưa bao giờ như vậy. Đó là lý do tại sao tường thành của Chính Định vẫn đứng vững."

“Lúc đó bố đại diện cho đa số quần chúng nhân dân,” bố tôi nói. "Giờ chỉ còn bốn hoặc năm đứa trong cả lớp đứng về phe thua cuộc của con. Con sẽ chẳng bao giờ nhận được sự ủng hộ của đa số mọi người đâu!"

"Nhưng thực tế phe bọn con đã chiếm đa số trong toàn trường và trong Chính Định nói chung."

"Chính Định là một nơi phức tạp. Quân đội Giải phóng Nhân dân đã phải giành lấy nó bằng máu từ quân Quốc dân đảng. Vẫn còn rất nhiều phần tử xấu ở đây, và chúng thích thừa nước đục mà thả câu. Việc chiếm được đa số ở Chính Định chẳng có ý nghĩa gì so với toàn tỉnh. Con có được lòng đa số ở Thạch Gia Trang không? Bố nghi ngờ điều đó."

"Bố phải hiểu, sự thật đôi khi thuộc về thiểu số."

"Nhóm Cách mạng Văn hóa Trung ương đã tuyên bố ai đúng. Đồng chí Trần Bá Đạt là thư ký riêng phục vụ lâu năm cho Mao Chủ tịch, và rõ ràng hiểu Tư tưởng Mao Trạch Đông hơn con rất nhiều. Con nên tuân theo."

Khi bố tiếp tục thuyết giảng tôi, tôi tự hỏi liệu đây có phải là người đàn ông luôn đấu tranh cho sự thật và thường phải hứng chịu các hình phạt vì không bỏ các nguyên tắc của mình. Đây có phải là người đàn ông như một thanh kiếm thép, thà gãy chứ không cong? Thanh kiếm này dường như đã mòn đi phần lưỡi, vì bố muốn tôi vâng lời và tuân theo chiều gió. Bố vẫn tiếp tục nói, và thỉnh thoảng tôi lại gật đầu một cách máy móc, vì không hiểu ông đang nói gì. Tôi không muốn tranh cãi với bố nữa.

Cuối cùng, ông đã hoàn thành bài giảng của mình, và tôi đã tranh thủ hỏi bố rằng liệu việc ông ấy tham dự lớp học tập tư tưởng này, có đồng nghĩa là việc phục chức của bố có được chấp thuận không. Bố chỉ nói rằng mình không biết. Bố tôi mong được qua mau, vì còn nhiều việc phải làm. Nói cho cùng, ông nói, việc tự phê bình không phải là một cách hiệu quả để lĩnh lương nhà nước.
 
37. HUYNH ĐỆ TƯƠNG TÀN

Những người của Quân đoàn Hồng Đông đã ra lệnh cho tôi và đám bạn cùng phòng phải ra khỏi phòng sinh hoạt chung và biến nó thành một căn phòng tối. Chúng cho biết căn phòng đó sẽ được dùng cho buổi triển lãm ảnh sắp tới, về cuộc đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng, đường lối cách mạng của Mao Chủ tịch, và tư tưởng phản động của giới tư sản. Chúng tôi chuyển đến một căn phòng khác, cách ký túc xá của tôi tầm ba dãy nhà.

Thằng Bá Vương và những đứa đi theo nó đã chiếm căn phòng cũ của chúng tôi. Cửa chính luôn đóng và cửa sổ được che kín bằng chăn. Không mất nhiều thời gian để bí mật của chúng nó bị phát tán: Quân đoàn Hồng Đông đã thiết lập các phòng tra tấn để trừng phạt những học sinh đóng vai trò nổi bật trong Hồng Kháng Quân, hoặc những ai không thoái lui. Tôi bắt đầu để ý thấy những cựu thành viên Hồng Kháng Quân đi khập khiễng quanh khuôn viên trường như thể họ bị thương. Họ đều lảng tránh khi tôi cố bắt chuyện với họ. Tôi đã báo cáo vấn đề với hai sĩ quan quân đội. Họ chỉ trả lời với tôi rằng, đây là một phong trào quần chúng và họ không có quyền ngăn chặn nó; tất cả những gì họ có thể làm là nhắc nhở rằng Đảng không ủng hộ các hành vi bạo lực. Vì lý do nào đó, tôi chưa thấy mình gặp nguy hiểm. Cho nên tôi đã không phòng bị khi đến lượt mình, vào một buổi sáng sớm vài hôm sau.

Một giọng nói đánh thức tôi. Mỹ Hồ đang nhìn tôi với nụ cười ngọt ngào như cún con. Có phải nó đến để xin lỗi?

"Hãy đi với tao. Có người muốn nói chuyện với mày." Nó nói nhẹ nhàng. Các bạn cùng phòng của tôi vẫn đang say giấc và không thức dậy. Tôi mặc áo khoác độn và theo nó ra ngoài. Trời vừa rạng sáng, và không có ai ở ngoài sân. Tôi hỏi nó là đi đâu. "Mày sẽ biết khi đến nơi thôi ấy mà." Nó thủng thẳng trả lời. Đích đến là căn phòng ký túc cũ của chúng tôi. "Mày vào trước đi" nó nói. Tôi đẩy cửa vào. Căn phòng tối mịt. Mắt tôi chưa quen với bóng tối thì có ai đó đến sau lưng và bịt mắt tôi bằng một miếng giẻ hôi hám, rồi tôi bị đẩy về phía trước. Tôi cảm thấy sự hiện diện của nhiều người xung quanh, mặc dù chúng im lặng.

Thằng Bá Vương ra lệnh cho tôi ngồi xuống. Hai tay tôi bị kéo ra sau và bị trói sau lưng ghế. "Mày có biết tại sao lại ở đây không?" Nó dường như đang ngồi đối diện với tôi.

“Tra tấn tao chứ còn làm gì,” tôi trả lời, cố gắng kiềm chế cơn run rẩy. "Nếu không thì tại sao chúng mày lại bịt mắt và trói tao lại?"

"À, đồng chí Song Căn đã nhiều lần chỉ cho mày một con đường sáng sủa và huy hoàng, nhưng tiếc là mày vẫn không chịu hiểu ra. Bọn này quyết định sẽ giúp đỡ mày một chút."

"Tao vẫn đang cân nhắc lời khuyên của nó."

"Cân nhắc? Cân nhắc được bao lâu rồi?" Giọng nói của Bá Vương to hơn. "Đã được một tháng trời. Đã chỉ đường cho mà không biết đi. Hãy nhìn xem có bao nhiêu đứa Hồng Kháng Quân đã trở về với cách mạng. Chỉ mấy đứa chúng mày vẫn cứng đầu. Cả bọn lãnh đạo của chúng mày đã bị bắt. Hay mày vẫn đang mơ tưởng sẽ cứu vãn được?"

"Với việc các nhà lãnh đạo của phe bọn này đã bị bắt, với cả Hồng Kháng Quân đã tan rã, cần gì phải tuyên bố thoái lui nữa?" Tôi trả lời. "Tao không quan tâm đến kết bè kết phái nữa. Giờ tao chỉ học lắp ráp radio."

Giọng nói của Bá Vương càng thêm tức giận. "Vớ vẩn! Đúng là Hồng Kháng Quân đã bị tan rã, nhưng chính bản thân mày cũng phải chính đốn, cả về mặt tư tưởng và tổ chức."

"Phải để thời gian để người ta thay đổi quan điểm của mình..." Tôi bị ngắt lời bởi một cú đánh mạnh vào chân. Tôi tự hỏi chúng nó đang sử dụng thứ gì để đánh tôi. Có khả năng đó là một cái chân ghế.

"Sao thế? Cái đầu bã đậu của mày đột nhiên sáng hơn rồi à?" Bá Vương nói như thể nó muốn tôi biết rằng nó đang ngồi trước mặt tôi từ nãy đến giờ.

"Mày dừng ngay việc tra tấn này lại. Chẳng phải chúng ta đều là đồng môn, cùng là huynh đệ cùng lớp sao?”

"Đồng môn? Anh em cùng lớp?" Bá Vương gầm lên. "Tại sao mày không nói thế lúc vung giáo với kiếm vào mặt bọn tao? Bây giờ mày phải thú nhận tội ác của mình khi chống lại Quân đoàn Hồng Đông và Quân đội Giải phóng Nhân dân!"

"Đúng là tao đã chống lại chúng mày, nhưng tao không có gan chống lại Quân Giải phóng Nhân dân. Tại sao phải làm thế cơ chứ? Cả lớp thừa biết rằng bố tao là một thủ lĩnh du kích kỳ cựu đã sát cánh cùng Quân Giải phóng Nhân dân trong những năm tháng chiến tranh! "

"Để tao nhắc lại cho nhớ, chính mồm mày đã hô: 'Đả đảo Lý Đồng Mao!' Ông Lý là chỉ huy của Tập đoàn quân 93. Mày có ý gì khi làm vậy?”

"Đúng là tao đã hô khẩu hiệu đó. Nhưng ông Lý đó chỉ đơn thuần là ông Lý. Ông này không đại diện cho cả tập đoàn quân. Nếu tao không nhớ nhầm, bên chúng mày đã hô 'Đả đảo Túy Thiên!' Ông Túy chính là chỉ huy của sư đoàn tên lửa và đơn vị 901."

Bá Vương lại hạ giọng. "Thôi không nói về những khẩu hiệu tầm phào này nữa," nó nói. "Giờ đến trọng tội của mày. Mày có tham gia đánh đập cô y tá ở bệnh viện quân đội không?"

"Không, tao phản đối việc đánh đập dã man. Chính Kiến Hoa này là người đã thả cô y tá quân đội đó."

"Mày đã tham gia vào cuộc chiến chống lại những đồng minh của bọn này?"

"Tao chủ yếu đi theo với tư cách là phóng viên cho tờ báo của tổ chức thôi."

Một loạt cú gậy giáng xuống chân tôi. Tôi vì đau mà vặn vẹo người trên ghế, khiến sợi dây trói cứa vào cổ tay. Những kẻ tra tấn tiếp tục đánh. Dần dần, chân tôi trở nên tê liệt. Sau đó cơn tê giảm dần và thay vào đó là cơn đau nhói. Tôi nghĩ rằng mình lại bị ăn đòn. Thực tế, chúng nó đã dừng lại từ bao giờ.

Bá Vương tiếp tục thẩm vấn từ vị trí của mình trước mặt tôi. "Sao thế? Giờ chịu thú nhận rồi à?"

Tôi cảm thấy lạnh người, dù chiếc áo khoác đệm của tôi ướt đẫm mồ hôi. "Tao đã trả lời tất cả các câu hỏi của chúng mày rồi còn gì?" Tôi nói.

"Ai tham gia đội Dạ Hổ? Nói!"
"Mày biết rõ mà: Tam Hỷ, Nhị Xú..." Tôi đọc thuộc lòng tên của những người đã không trở lại trường học.

"Đừng có mà giở trò! Bọn tao muốn biết tên của những đứa đang ở đây. Tất nhiên bọn tao biết thừa chúng nó là những đứa nào; hỏi câu này vì chỉ muốn xem liệu mày đã hối cải chưa thôi."

"Nếu biết tại sao còn hỏi?"

Hai cú đánh rơi trúng xương đầu gối của tôi. Tôi kêu lên vì đau không chịu được.

"Đừng có mà giả vờ, làm gì mà đau. Mày chỉ cần nêu tên một đứa Dạ Hổ đang ở trong khuôn viên trường ngay bây giờ thì sẽ được tha. Nếu không, cứ ngồi đây mà ăn đòn."

"Không biết."

Các cú đánh nhắm xuống đùi, đầu gối và ống đồng của tôi. Tôi vùng vẫy. Một cú giáng thẳng vào mũi, làm tôi choáng váng. Chiếc ghế ngã phịch xuống một bên. Lúc đó, tôi nghĩ hộp sọ của mình đã vỡ toang và tôi sắp chết. "Ông ngoại ơi!" Tôi hét lên. Một dòng máu nóng trào ra từ mũi chảy dài xuống gò má. Vài phút trôi qua, rồi những kẻ tra tấn xúm lại dựng thẳng chiếc ghế lên. Tôi thấy vị của máu trong miệng tôi.

"Nói cho bọn tao nghe còn đứa Dạ Hổ nào ở trường."

Đầu tôi quay cuồng. "Độc ... Túc ... ," tôi thều thào, lúc này không biết được mình đang nói gì nữa.

“Vì vị thế của ông bố mày, các vị quan đây sẽ tha cho mày, không phải học hết cái khóa cải tạo mà những đứa Hồng Kháng Quân cứng đầu khác phải nếm mùi.” Bá Vương nói. "Tiễn khách!"

Có đứa liền cởi trói cho tôi, và hai đứa khác giúp tôi đứng dậy. Chân tôi bủn rủn và tôi lại ngồi xuống. Chúng kéo tôi lên và lôi tôi về phía cửa. Theo sau là giọng của Bá Vương: "Về mà viết một bản tuyên bố thoái lui và đăng nó lên trong vòng ba ngày, hiểu chứ? Và đừng có hé lời với bất cứ ai về buổi sáng nay, mày nên nhớ như vậy. Nếu không, mày sẽ phải quay lại đây." Đôi mắt tôi được tháo bịt khăn, và ánh sáng ban mai làm tôi lóa mắt. Một cú đẩy khiến tôi ngã sóng soài trên mặt đất. Cánh cửa phía sau đóng sầm lại.​
 
37. HUYNH ĐỆ TƯƠNG TÀN (tiếp)

Mãi đến tối hôm đó, tôi mới nhớ ra rằng tôi đã nói tên Độc Túc cho Bá Vương. Tôi cố nhoài ra khỏi giường và khập khiễng bước đến phòng Độc Túc để bảo thằng bé trốn đi. Đã quá muộn, người bạn cùng phòng của nó nói với tôi rằng có một tên vừa dẫn Độc Túc đi. Tôi liền tự mắng mình: Đồ Hèn! Kẻ phản bội! Tôi đã gục ngã dưới sự tra tấn, giống như tên phản bội trong tiểu thuyết ‘Vách đá đỏ’ vậy. Tôi đã phản bội một người đồng chí. Tôi căm ghét bản thân mình vì đã không mạnh mẽ và khôn khéo hơn.

Sáng hôm sau, tôi quay lại phòng Độc Túc. Thằng bé đang nằm trên giường, để nắng chiếu vào mặt. Tôi chưa kịp nói gì, nó đã cười nói: “Anh Kiến Hoa à, em bị lái trực thăng tối hôm qua. Chúng nó treo em lên xà rồi đánh. Bọn này cũng khá môn vật lý đấy, tiết kiệm sức lực bằng cách sử dụng máy cơ đơn giản để treo em lên." Tôi liền nắm lấy tay nó và nói: "Độc Túc, chính anh là nguyên nhân mà em phải chịu khổ." Tôi mong chờ nó gọi tôi là kẻ phản bội và bị ăn vả. Thay vào đó, nét mặt áy náy hiện rõ trên khuôn mặt Độc Túc, nó nắm chặt tay tôi và nói: “Sao trách anh được. Em hiểu cảm giác khi bị tra tấn, nó đủ để khiến người ta phát điên. Khi chúng nó đe dọa sẽ treo em lên cả đêm, em cũng đã nêu cho chúng nó một vài cái tên.”

Sau khi rời phòng Độc Túc, tôi đã hiểu tại sao trong những năm vừa rồi, bố tôi ngày càng trở nên “biết điều” hơn. Chính tôi đã đầu hàng sau một giờ thẩm vấn và tra tấn. Tôi thậm chí đã phản bội một đồng đội. Bố tôi chắc đã trải qua hết đợt này đến đợt khác của sự tra tấn cả về tinh thần lẫn thể xác. Không có gì ngạc nhiên khi ông đã phải mềm mỏng hơn.

Tôi nghĩ về Ngọc Lan, cái con bé đã nhảy ra khỏi tòa nhà Sở Công an với lá cờ đỏ quấn quanh mình, và Tống Anh, người đã nguyền rủa những kẻ tra tấn nhỏ, và tất cả những người C.ộng sản kiên trung đã phải chịu đựng sự tra tấn trong tiểu thuyết “Vách đá đỏ”. Họ có phải là người thật không vậy?

Chân tôi đau đến mức tôi phải nằm trên giường cả tuần sau đó. Những người bạn cùng phòng của tôi đã mang thức ăn đến cho tôi và giúp tôi đi vệ sinh trong một cái bô. Về phần viết tuyên bố, tôi đã trì hoãn đến phút cuối cùng, khi Mỹ Hồ đến lấy. Tôi chẳng còn bận tâm để nghĩ đến việc nó đã được dán ở chỗ nào.

Khi tôi có thể tạm đi lại được, lũ bạn cùng lớp trong phe địch đã bắt tôi tham gia các cuộc tranh luận trong phòng học cũ của chúng tôi. Chúng muốn tôi tự phê bình, nhưng tôi nói càng ít càng tốt. Hai sĩ quan quân đội thi thoảng tham gia với chúng tôi và kể về những trải nghiệm của họ ở Việt Nam. Họ để đám học sinh nghịch súng lục của mình cho đến khi một khẩu súng bị cướp cò trong tay Mỹ Hồ và suýt trúng đầu của Tào Lan. Lũ bạn cùng lớp cũng giao cho tôi các công việc lao động chân tay. Chỉ có một mình, tôi đào một cái hố trên mặt đất đóng băng để làm chỗ đổ nước giặt bẩn.

Khi thời tiết ngày càng trở nên lạnh hơn, càng nhiều thành viên Hồng Kháng Quân từ bỏ lòng trung thành của họ. Có tầm bốn đến năm phòng tra tấn hoạt động suốt ngày đêm. Một số kẻ tra tấn đang sử dụng các phương pháp tàn bạo như dưới thời Quốc dân đảng và đế quốc Mỹ. Một chị gái mà anh Mạnh Triết đã cài làm điệp viên trong Quân đoàn Hồng Đông bị mảnh tre đâm vào dưới móng tay.

Tiết Đại Tuyết đã đến vào cuối tháng 12. Bầu trời xám xịt, còn mặt đất trắng xóa, những cái cây trụi lá đung đưa để giữ tuyết trên cành. Tôi đang ngồi trong phòng, đọc sách bên bếp lò thì cửa mở và anh Vệ Hoa xuất hiện. Anh bước vào và giũ tuyết khỏi chiếc áo khoác độn của mình.

Tuyết đọng trên lông mày anh Vệ Hoa tan ra và nhỏ xuống mặt anh. Có phải anh tôi đã hóa điên mà đến đây? "Tại sao anh lại quay lại?" Tôi kinh ngạc. "Anh không biết chuyện gì đã xảy ra sao?"

"Tất nhiên là biết chứ. Tin tức về bài phát biểu của lão Trần Bá Đạt đã đến quê ngoại của nhà mình từ lâu rồi. Anh An phải lẩn trốn vì cái tổ chức nổi dậy của anh ấy ủng hộ Tập đoàn quân 48. Hiện ở đấy người ta đang bắn nhau nên không an toàn. Anh nghĩ mình nên quay lại và cố gắng giúp đỡ phe ta."

"Giờ thì anh có thể làm cái quái gì được chứ?" Tôi nói. "Mọi thứ kết thúc rồi. Chúng nó đang đánh đập mọi người. Anh đang bị truy nã nên không thể ở lại đây được!"

"Tình hình nghiêm trọng như vậy cơ à? Thế mà một số đứa của Quân đoàn Hồng Đông đã chào khi anh đi qua cổng. Có làm sao đâu nhỉ."

"Đó hẳn là một cái bẫy đấy! Chúng nó đã biết anh đang ở đây. Giờ anh phải trốn đi ngay lập tức!"

"Nhưng đi đâu bây giờ?"

"Đi đâu cũng được, hay đi gặp vợ chồng lão Lưu gần nhà mình, họ sẽ giúp anh trốn thoát."

Ngay sau đó, một nhóm học sinh Quân đoàn Hồng Đông bước vào. Dẫn đầu họ là tên Môi Sứt, bạn cùng lớp của anh Vệ Hoa, và một tên học sinh khóa trên có biệt danh Hào Hoa Công Tử. Bố của Môi Sứt là một cựu chiến binh Trường Chinh, người đã nhiều lần thuyết trình cho các buổi học chính trị của lớp tôi, lúc nào cũng kể cùng một câu chuyện về ăn thắt lưng da để sống sót khi băng qua đồng cỏ ở Tây An. Còn bố của tên Hào Hoa kia từng là một quan chức nhỏ làm trong phòng quản lý dược phẩm của huyện Chính Định. Bố tôi đã bắt hắn chuyển công tác vì tội tham ô. Tôi biết hai tên này đang phụ trách một phòng tra tấn, vốn từng là văn phòng cũ của bí thư Đinh. Cả hai đều có dây thừng treo trên thắt lưng da kiểu quân đội. Một đôi còng sáng lấp lánh lủng lẳng trên hông của Hào Hoa.

"Vệ Hoa đấy à, đi ra kia với bọn tao," tên Môi Sứt nói. "Có chuyện muốn cùng bàn với mày chút."

"Các người không thể bắt anh ấy đi được!" Tôi kêu lên. "Anh tôi đang bị cảm lạnh." Tôi nắm lấy tay áo của anh Vệ Hoa. "Anh ơi, chúng nó sẽ đánh anh đấy!"

"Hồ đồ!" Tên Môi Sứt tỏ ra bực bội. "Bọn này chỉ muốn nói chuyện. Làm làm gì có chuyện bạn bè cùng lớp lại đi đánh nhau?" Nói xong hắn lại quay sang anh Vệ Hoa.

"Đi thôi chứ còn chờ gì."

"Anh đừng tin bọn chúng! Đừng đi!" Tôi cầu xin anh Vệ Hoa, nhưng anh vẫn ra phía cửa. "Anh chưa bao giờ động tay với chúng nó. Chắc mình cũng sẽ ổn thôi.", anh nói. Ba người cùng đi ra giữa trời đầy tuyết.

Đi theo họ đến tòa nhà Giáo viên, tôi lại nắm lấy cánh tay của anh Vệ Hoa và nài nỉ anh ấy ở lại với tôi. "Anh chả sợ," anh nói. "Để xem chúng nó sẽ làm gì." Tôi bám vào cánh tay anh ta cho đến khi hai tên kia kéo tôi ra và giữ tôi lại. "Các người không được đánh anh tôi, Các người không được đánh anh tôi!" Tôi hét lên đằng sau. Bóng anh Vệ Hoa chìm dần trong tuyết. Hai tên kia đang giữ liền xô ngã tôi xuống và đuổi theo. Cuống cuồng, tôi đi tìm một thành viên Hồng Kháng Quân lớn tuổi hơn, mong có thể can thiệp được, nhưng không có ai đủ gan để làm điều đó. Những người bạn cùng phòng của tôi đã kêu gọi các sĩ quan quân đội, nhưng họ cũng không giúp được gì.

Tôi đi đi lại lại trong phòng trong sự lo lắng và tuyệt vọng cho đến khi một tiếng thịch nặng nề vang lên ngoài cửa. Tôi mở ra và thấy anh Vệ Hoa đang nằm úp mặt vào tuyết. Chiếc áo khoác đệm bông của anh đã bị rạch thành từng dải. Lớp tuyết tuyết bên dưới hòa với máu anh chuyển sang màu đỏ hồng. Những người bạn cùng phòng đã giúp tôi bế anh ấy lên giường và đi tìm bác sĩ. Khuôn mặt của anh Vệ Hoa đầy những vết cắt và bầm tím. Tôi bắt đầu cởi bỏ lớp áo dính máu của anh ấy. Có những vết hàn trên lưng và chân của anh ấy. Anh tỉnh lại và nhìn tôi. “Những thằng khốn đó đã cướp chiếc bút Parker của anh rồi,” anh nói.

Không tìm được y sĩ Dương, những người bạn cùng phòng của tôi đã gọi hai sĩ quan quân đội trở lại. Thấy vết thương của anh Vệ Hoa có tính nghiêm trọng, họ đã đồng ý mang theo bộ dụng cụ sơ cứu. Có lẽ Sư đoàn 73 đã cố tình cử bác sĩ đến, vì biết rằng kỹ năng y tế của họ có lúc sẽ cần đến. Họ không hỏi nguyên do của các vết thương đã xảy ra hoặc ai là thủ phạm. Hai vị bác sĩ quân y chỉ kiểm tra tim, đo huyết áp, kiểm tra tứ chi, băng bó vết thương của anh Vệ Hoa và nói rằng anh sẽ ổn.

Buồn thay, anh Vệ Hoa không thể chịu đựng được quá vài ngày. Hai tên Môi Sứt và Hào Hoa đã đánh anh bằng thắt lưng da, gạch, dùi cui và lò xo cửa. Chúng chẳng buồn thẩm vấn anh bất kỳ câu hỏi nào, mắt anh cũng không bị bịt lại.

Mưa tuyết kéo dài thêm vài ngày sau đó. Khi tuyết ngừng rơi, anh Vệ Hoa đã có thể đứng dậy. Tôi đã thuyết phục anh về nhà. Vào lúc ba giờ sáng, tôi giúp anh ấy lê bước qua lớp tuyết phủ ngập đến đầu gối đến phía sau khuôn viên trường, nơi tôi đã giúp anh leo lên bức tường thành cổ. Anh lên đường bắt chuyến xe sớm về Linh Thọ.
 
38. HỒI QUANG PHẢN CHIẾU

Khi năm 1967 sắp qua, các ký túc xá của trường tôi gần như chật kín lần đầu tiên sau một năm. Hầu như tất cả các học sinh đã trở lại. Hầu hết các thành viên Hồng Kháng Quân trước đây giờ dường như phải cam chịu trước chiến thắng của Quân đoàn Hồng Đông. Hơn nữa, người dân tin rằng lời kêu gọi của Đảng về một “liên minh cách mạng vĩ đại” là dấu hiệu kết thúc phong trào Cách mạng Văn hóa. Học sinh bắt đầu bàn về việc tiếp tục các lớp học, tốt nghiệp và vào đại học.

Các nhà lãnh đạo Quân đoàn Hồng Đông đã trở thành những kẻ quản lý trường chúng tôi. Họ ra lệnh cho tất cả các giáo viên, hầu hết trong số họ đã trải qua một mùa hè và mùa thu nhàn nhã ở nhà, phải quay lại trường học với lời đe dọa rằng, nếu không họ sẽ bị coi là tự ý nghỉ việc. Không muốn mất đi cái cần câu cơm nuôi mình, các thầy cô đều quay trở lại. Những ai không đứng về phe nào trong cuộc giao tranh bè phái được khuyến khích gia nhập Quân đoàn Hồng Đông. Những tên Ngưu quỷ Xà thần được yêu cầu dọn dẹp tòa nhà đa năng cũ và chuyển vào ở những căn phòng nhỏ giống như phòng giam trong đấy. Đối với những người từng ủng hộ Hồng Kháng Quân, nhiều người đã trở thành nạn nhân của các cuộc tra tấn. Tôi đã nghe rằng giáo viên chủ nhiệm của chúng tôi, cô Văn Tú, đã bị đánh đập vì giúp chúng tôi in báo.

Kẻ kém may mắn nhất vẫn là bí thư Đinh. Ông này không tham gia phe nào, nhưng vẫn là kẻ theo chủ nghĩa tư bản số một của trường và đồng thời là tên xét lại phản cách mạng. Một lần nữa, ông cựu Bí thư được giải lên sân khấu giảng đường để “lái máy bay”. Lần này, ông Đinh có thêm một số người bị bêu cùng: anh Mạnh Triết và các thủ lĩnh khác của Hồng Kháng Quân. Quân đoàn Hồng Đông coi anh Mạnh Triết là "kẻ điên cuồng phản cách mạng" và buộc tội anh làm sai lệch định hướng chung của Cách mạng Văn hóa, cũng như chứa chấp kẻ theo con đường tư bản số một, bí thư Đinh, và những tên Ngưu quỷ Xà thần. Anh Mạnh Triết cũng phải gánh trách nhiệm về những "tội ác" được cho là của Hồng Kháng Quân. Thư ký của anh, chị Kim Phong, bị gọi là "vợ lẽ". Lỗ Song, thằng cu đứng đầu đội Dạ Hổ, bị đặt tên là "tên đao phủ".

Chúng tôi hầu như không bao giờ được gặp các nhà lãnh đạo của mình giữa các cuộc họp, vì họ bị giam và bị trông chừng suốt ngày đêm. Rõ ràng họ đang bị tra tấn. Khi bị đưa lên trên sân khấu, họ trông giống ma hơn là người. Anh Mạnh Triết bị cạo trọc đầu, còn mặt đầy vết sẹo và bầm tím, râu ria mọc cả tuần trên cằm, không biểu lộ cảm xúc gì khi bị bắt lái máy bay. Ngay cả khi một đứa Hồng Kháng Quân phản bội bước lên sân khấu để tố cáo anh, khuôn mặt anh Mạnh vẫn vô hồn. Tôi hầu như không thể nhận ra được vị tổng tư lệnh ngày nào, với sự tự tin điềm tĩnh, nhẹ nhàng có thể truyền cảm hứng cho mọi người để tuân theo mệnh lệnh của mình. Quân đoàn Hồng Đông yêu cầu mọi người phải tham dự các cuộc họp này. Tôi ngồi càng xa trong khán phòng càng tốt và cố gắng tưởng tượng rằng thay vào đó, ông Phương Bảo và thằng Bá Vương đang lái máy bay.

Tôi cảm thấy rất lẻ loi trong khoảng thời gian này. Tôi đã không gặp Tôn Vệ được hai tháng. Nhị Xú cũng không trở lại. Còn Tam Hỷ vẫn đang mòn mỏi trong bệnh viện ở Bảo Định. Tin tức về tình trạng của nó rất tệ: bệnh viện không thể tống Tam Hỷ ra ngoài, nhưng cũng không có phác đồ điều trị gì cho nó. Tôi kêu gọi hai sĩ quan đại diện cho quân đội tại trường giúp đỡ, nhưng họ nói rằng đó không phải là việc của họ.

Ông Phương Bảo đang tập trung củng cố quyền lực của mình. Theo chỉ thị từ Bắc Kinh, một ủy ban cách mạng ba-trong-một sẽ được thành lập để điều hành trường học. Đầu tiên, một ủy ban trù bị được thành lập. Thay vì chiếm lấy vị trí cao nhất, ông Phương Bảo đã mời hiệu trưởng cũ của trường, thầy Ngô Độc, trở về từ trường Đảng Trung ương trên Bắc Kinh để đứng đầu ủy ban. Còn ông Phương Bảo trở thành phó chủ tịch. Hai vị bác sĩ quân y trở thành đại diện của quân đội. Mọi người đều nói rằng thầy Ngô Độc chỉ là kẻ bù nhìn và hai vị sĩ quan kia không thể ở trong trường mãi được. Do đó, tương lai của trường nằm gọn trong tay ông Phương Bảo.

Một buổi chiều, khi một cuộc đấu tố đang diễn ra, tôi đang dựa vào bậu cửa sổ ở phía sau giảng đường, thằng Mỹ Hồ bước ra ngoài cửa sổ đang mở và nói với tôi bằng một giọng đều đều: “Tốt hơn là mày nên đi với tao bây giờ để gặp bạn chiến đấu cũ của mày."

"Ai vậy?" Tôi hỏi, tự hỏi liệu đó là một tin tốt lành hay một điềm gở.

"Cứ đến rồi sẽ biết."

Tôi trèo ra khỏi cửa sổ và cùng Mỹ Hồ đi bộ về ký túc xá cũ của chúng tôi. Nó dẫn tôi vào phòng bên cạnh chỗ tôi đã bị tra tấn. Hai đứa bạn cùng lớp thuộc phe địch đang ở đó. Những chiếc ghế lật ngược nằm chỏng chơ và một số sợi dây thừng nằm trên vung vãi trên sàn. "Nó kia kìa," Mỹ Hồ nói, đồng thời chỉ tay đến một chiếc giường tầng trong góc.

Đó là Tôn Vệ. Nó nằm ngửa trên tấm gỗ trần của phần giường dưới, đôi mắt khép hờ, mặt tím tái. Cái áo khoác đệm bông của nó được treo trên cột giường. Chiếc áo len màu đỏ nó đang mặc bên trong đã bị rách. Quần của nó, vốn có màu xanh thẫm, nay nhuốm máu. Thắt lưng của Tôn Vệ bị mất và khóa quần bị bung ra, để lộ chiếc quần lót màu đỏ cùng màu với áo len. Đôi chân trần trụi, đôi giày không còn.

"Tôn Vệ, bạn mày đến rồi kìa!" Mỹ Hồ hét lên một cách mỉa mai khi tôi đứng đó như trời trồng. "Mở to mắt ra mà nhìn thằng đồng đội!"

Tôn Vệ mở mắt và nhìn tôi chằm chằm. Tôi mong mỏi nó ném cho tôi một dấu hiệu vui mừng, hay chỉ cần một lời kêu gọi giúp đỡ. Thay vào đó, tôi chỉ thấy sự thất vọng, ghê tởm, thậm chí là căm ghét. Liệu nó nghĩ rằng tôi đã phản bội nó chăng? Hay nó đang nghĩ rằng tôi đến để thuyết phục nó đầu hàng? Nếu không, tại sao tôi lại đến với bộ dạng khỏe mạnh và không hề hấn gì? Tôi cảm thấy xấu hổ. Tôi muốn nó tha thứ cho tôi. Tôi muốn nó biết tôi không phải là một kẻ phản bội. Đôi mắt mệt mỏi của nó lại nhắm tiếp.

"Tôn Vệ!" một trong những đứa cùng lớp của tôi hét lên. "Mau thú nhận tội của mày ngay!"

Tôn Vệ mở mắt ra và thều thào, "Mệt quá!" Mắt nó lại nhắm lại.

"Đừng có mà giả vờ!" Thằng kia gầm lên. "Giờ không thú tội, có nghĩa là mày không muốn đi khỏi đây chứ gì!" Hai thằng thẩm vấn tiếp tục la hét vào mặt Tôn Vệ nhưng không nhận được phản hồi.

“Hãy để y sĩ Dương đến!” tôi cầu xin chúng nó.

“Làm sao mà chết được,” thằng Bá Vương bước vào phòng và nói. "Rõ ràng nó đang giả vờ. Đừng để bị lừa, đứng đấy chờ nó nhận tội."

Tôn Vệ đang thở dốc. Môi của nó trắng bệch và nứt nẻ. Nó lại mở mắt ra và nói bằng một giọng gần như không thể nghe ra, "Nước, cho tôi xin tí nước…" Đôi môi khô khốc của Tôn Vệ vụng về mấp máy. "Làm ơn, hãy cho nó một ít nước," tôi nói. "Chúng mày biết rõ là nó không thể thú nhận trong tình trạng này." Bá Vương không nói gì, có lẽ là thằng đấy không phản đối. Tôi liền chộp lấy một cái bát và chạy một mạch đến phòng bếp bên cạnh phòng ăn. Tôi đổ đầy bát với nước từ nồi đun và quay trở lại nhanh nhất có thể, tay cố gắng không làm vãi nước ra.

Hai thằng kia vẫn tiếp tục la hét vào mặt Tôn Vệ đòi nó thú tội, trong khi tôi quỳ xuống bên giường. Quên mất là nước quá nóng, tôi đành phải thổi nguội một lúc. Tôi choàng tay qua vai Tôn Vệ, nhấc nó lên và đặt bát lên môi. Tôi đỡ lấy bát nước bằng cả hai tay, nó uống như một người sắp chết khát. Tôi bảo Tôn Vệ dừng lại nhưng nó không nghe, cứ thế tu cạn cái bát. Tôi hỏi nó có cảm thấy khá lên chút nào không, song nó không trả lời. Tôi đặt Tôn Vệ nằm xuống và phủ chiếc áo khoác bông lên nửa thân trên của nó.

Tình hình Tôn Vệ vẫn không khá hơn. Tôi đi ra ngoài và thấy thằng Bá Vương đang nói chuyện với Tào Lan và Tùng Phương. Tôi cầu xin nó để cho tôi gặp y sĩ Dương, nhưng nó thẳng thừng từ chối. Khi tôi trở lại bên giường của Tôn Vê, tôi thấy nó giờ đang thở yếu đi hẳn, còn mặt thì xám xịt. Tôi lại chạy ra ngoài trong cơn hoảng loạn. Thằng Bá Vương đã biến đi đâu mất. Tôi đã tìm gặp Song Căn và thuyết phục nó đến kiểm tra tình hình Tôn Vệ. Nó cũng thấy sợ và đồng ý để tôi đi gặp y sĩ Dương.

Tôi chạy đến bệnh xá. Khi tôi nói với y sĩ Dương về Tôn Vệ, cô ấy trông có vẻ biến sắc. Cô cho biết bọn Quân đoàn Hồng Đông đã quấy rầy cô vì đã chữa trị cho một số thành viên Hồng Kháng Quân bị thương, nên y sĩ Dương sợ làm quá đà. Tôi gần như sắp nước mắt cầu xin: “Y sĩ Dương, xin cô đừng chỉ ngồi đó, hãy cứu lấy Tôn Vệ!” Cuối cùng, cô y sĩ đành lấy bộ sơ cứu của mình và theo tôi. Tôi cảm ơn và dẫn y sĩ về ký túc xá.

Hai tên kia đã rời đi. Tôn Vệ có vẻ thấy dễ thở hơn một chút. Nó nhìn tôi và mấp máy môi, nhưng tôi không thể hiểu nó đang nói gì. Y sĩ Dương bước vào. Cô cố gắng xắn quần của Tôn Vệ lên, nhưng cái quần thấm đầy máu khô đã dính chặt vào chân nó. Y sĩ Dương đành phải rạch mở ống quần bằng kéo, một cảnh tượng hãi hùng xảy ra. Khi tôi nhìn vào đôi chân trần của Tôn Vệ, đôi chân nó chi chít những vết thương hở, đó là những lỗ khoét với đường kính của một bút chì, được bao quanh bởi những mẩu cơ lỏng lẻo, nhìn như món thịt xé phay. Máu và mủ rỉ ra từ các vết thương.

"Chúng nó đã dùng cái quái gì để đâm cậu trai này vậy?" Y sĩ Dương lẩm bẩm. Nhìn quanh căn phòng, tôi tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi đó: những chiếc thanh xi được sử dụng để chống bếp. Bọn bạn cùng lớp của tôi đã dã man vụt và đâm Tôn Vệ bằng những chiếc xi đó. Tôi đã không nói với y sĩ Dương, vì sợ rằng cô ấy nghe được thì cũng ngất luôn.

Tôi bắt đầu cảm thấy nhẹ nhõm khi y sĩ Dương rửa sạch và băng bó vết thương cho Tôn Vệ. Đột nhiên, cô ấy dừng lại, còn Tôn Vệ lại thở gấp trở lại. Với mỗi hơi thở, dường như nó đang thở ra nhiều không khí hơn là hít vào. Y sĩ Dương nắm lấy cổ tay nó và bắt mạch. Cô đứng dậy đi ra ngoài, chỉ nói: "Để tôi nói chuyện với họ." Vài phút sau, cô y sĩ quay lại. "Mạch của cậu ấy rất yếu, chúng tôi sẽ đưa đến bệnh viện. Các bạn cùng lớp của em đã đi tìm một chiếc xe cáng."

Bá Vương, Song Căn, Mỹ Hồ và một số đứa học sinh khác của Quân đoàn Hồng Đông bước vào. Chúng đẩy tôi sang một bên và bắt đầu khiêng Tôn Vệ lên. Nó kêu lên một tiếng đau đớn và ngửa đầu ra sau. Đôi mắt Tôn Vệ trợn lên cho đến khi chỉ còn lòng trắng. Đồng đội của tôi như thể đang từ bỏ cõi đời này vậy. Tôi đã nghe nói rằng những người sắp chết thường tỉnh lại ngay trước khi đi xa, và sau đó mắt của họ trợn lên. Nó được gọi là "Hồi quang phản chiếu".

"Xin mọi người mau khẩn trương, nếu không Tôn Vệ sẽ chết mất!" Tôi kêu lên.

"Mày mà cũng đòi ra lệnh à?" Bá Vương nói. "Tránh đường ra mau!" Tôi phải tránh sang một bên khi chúng nó khiêng Tôn Vệ ra ngoài.

Hoàng hôn buông xuống. Cuộc đấu tố trong giảng đường đã kết thúc, và các học sinh đang đi về ký túc xá của họ. Thằng Bá Vương đu mình lên ghế đạp của xe xích lô. Những đứa khác chạy dọc hai bên. Đám học sinh vây quanh hầu như không thèm nhìn. Trong vài giờ sau đó, tôi mong rằng Tôn Vệ sẽ trở lại. Sau bữa tối, loa phát thanh ra lệnh triệu tập ban lãnh đạo Quân Đoàn Hồng Đông họp khẩn cấp. Lúc đó tôi biết mình sẽ không bao giờ gặp lại Tôn Vệ nữa.​
 
38. HỒI QUANG PHẢN CHIẾU


Vài ngày sau đó, lời giải thích chính thức cho cái chết của Tôn Vệ đã được chính thức đưa ra: Tôn Vệ đã đến thị trấn vào ngày họp chợ để mua sắm và đã ghé qua trường học. Nó đã tranh cãi với một số bạn nữ cùng lớp và xúc phạm họ bằng ngôn từ thô tục. Các cô gái gọi các nam sinh đến cứu viện. Tôn Vệ chống trả lại. Các thanh niên kia đã tiến hành bắt giữ nó và khi đang giải đi thì Tôn Vệ đột ngột qua đời vì suy tim do bệnh kinh niên.

Tôi biết căn bệnh duy nhất mà Tôn Vệ mắc phải, là thứ bệnh mà người dân quê gọi là "bệnh lông cừu". Thỉnh thoảng trên lưng lại nổi lên những sợi lông cứng gây ngứa ngáy khó chịu. Khi Tôn Vệ mắc phải, cô giáo chủ nhiệm Văn Tú sẽ đưa nó về nhà, ở đó người mẹ già xấu xí của cô sẽ xoa bột kiều mạch lên lưng nó để nhổ lông. Thật là lố bịch sao, khi bọn nó tuyên bố rằng căn bệnh cũ của Tôn Vệ đã dẫn đến trụy tim!

Tôn Vệ đã chết một cái chết đau đớn và oan uổng. Tôi đã tận mắt nhìn thấy khăn bịt mắt, dây thừng, dụng cụ tra tấn, vết thương và máu. Nhưng Quân Đoàn Hồng Đông và các đồng minh của bọn chúng tại sở Công an sẽ không bao giờ để bất cứ ai nhìn thấy thi thể. Dù câu chuyện bịa đặt của chúng có phi lý đến đâu thì cũng sẽ chẳng có ai thắc mắc. Tôi cũng không thể, việc duy nhất mà tôi có thể làm là chửi rủa bọn chúng trong âm thầm.

Ngay sau đó, chúng tôi đã bước vào năm 1968. Chúng tôi đánh dấu ngày đầu năm mới bằng một cuộc đấu tố các thủ lĩnh Hồng Kháng Quân.

Mẹ của Tôn Vệ, một bà góa phụ, đến thị trấn trên một chiếc xe bò do cháu họ lái để đưa con trai bà về nhà. Phe Quân Đoàn Hồng Đông không cho tôi tiếp cận với gia đình Tôn Vệ vì sợ rằng câu chuyện của tôi có thể khác hẳn với phiên bản chính thức. Tôi nhìn chiếc xe đẩy chở chiếc quan tài đóng kín, chứa thi thể đông cứng của Tôn Vệ lăn bánh. Mẹ của Zongwei đang khóc. Những lọn tóc bạc trắng xõa tung bay trong gió lạnh phương bắc.

Vài ngày sau, một đứa khác trong lớp tôi tên là Thanh Hải, vốn đã về nhà trong cuộc giao tranh phe phái và đã miễn cưỡng gia nhập Quân Đoàn Hồng Đông sau khi trở lại trường học, đưa cho tôi một mảnh giấy được gấp lại khi chúng tôi đi ngang qua nhau trên đường. Mở mảnh giấy ra, tôi đọc được một tin nhắn yêu cầu tôi phải gặp nó vào buổi tối hôm đó ở ao sau trường. Tim tôi bắt đầu đập thình thịch khi nghĩ rằng đó có thể là một cái bẫy của thằng Bá Vương. Nhưng dẫu sao tôi vẫn đi, bất chấp nỗi sợ hãi của mình. Đó là một đêm không trăng, tôi gặp Thanh Hải đang mặc một chiếc áo khoác dày có mũ trùm đầu. Đặt bàn tay lạnh giá vào tay tôi, nó nói, "Kiến Hoa, tôi biết ông có thể nghi ngờ tôi, nhưng ông sẽ sớm hiểu tôi sau này." Chúng tôi bắt đầu đi bộ, tay nắm tay để giữ ấm.

"Tôi muốn nói chuyện với ông vì tôi không thể nói chuyện với bất kỳ ai khác", Thanh Hải nói.

"Tại sao lại không?"

"Tôi không thể tin tưởng bất cứ ai cả."

"Ngay cả những đồng đội trong Quân Đoàn Hồng Đông?"

"Nếu tôi nói với họ những gì tôi đang thực sự nghĩ lúc này, chắc họ sẽ trục xuất tôi hoặc coi tôi như một kẻ thù chính trị."

"Nếu ông không thể tin chúng nó, tại sao lại tin tôi?"

"Có chuyện này tôi phải nói cho ông hiểu." Rồi nó nói một tràng dài. "Kiến Hoa à, tôi hoàn toàn không thích khủng bố và bạo lực. Tôi có thể hiểu tại sao hai phe đánh nhau. Nhưng tôi không hiểu tại sao một bên vẫn tiếp túc đánh, ngay cả khi đã toàn thắng. Tôi đã gặp ác mộng về cái chết của Tôn Vệ trong mấy đêm vừa rồi. Sau đó là vụ cưỡng hiếp của cô Văn... "

"Khoan đã, ông đang nói về cái gì vậy?" tôi dừng lại đột ngột và nhìn chằm chằm vào nó.

"Thằng Bá Vương và một số thuộc hạ của nó đã hãm hiếp tập thể cô Văn Tú. Sau khi Tôn Vệ qua đời, thằng Bá Vương đã ra lệnh cho cô Văn Tú viết một bản khai về căn bệnh mãn tính của Tôn Vệ. Cô ấy đã viết về cái bệnh lông cừu và mô tả cách mẹ cô ấy đã giúp điều trị nó. Điều này không thỏa đáng. Thằng Bá Vương muốn cô viết rằng Tôn Vệ đã bị sốc nhiều lần. Cô Văn nói với nó rằng cô không thể lừa dối nhân dân và Đảng. Thế là chúng nó đánh cô và sau đó hãm hiếp luôn."

"Cô Văn Tú là giáo viên của chúng ta trong hơn hai năm qua. Cô đối xử với chúng ta như con ruột của mình. Làm sao thằng Bá Vương có thể làm điều đó?"

"Thì đấy, nó đã mất kiểm soát rồi!"

Chúng tôi lại tiếp tục đi bộ. "Thế ông có biết tại sao Tôn Vệ lại bị bắt giữ và tra tấn không?” Tôi hỏi.

“Tôi ở trong phòng, còn lúc đó Tôn Vệ đang trên đường ra chợ. Tôi nghĩ nó không biết rằng mọi thứ đã thay đổi nhiều như vậy. Thậm chí nó còn nghĩ rằng cuộc đấu tranh bằng vũ lực đã kết thúc, và rằng chúng ta đang quay trở lại những ngày tranh luận sôi nổi. Khi Tào Lan và Tùng Phương nhìn thấy Tôn Vệ và yêu cầu nó đầu hàng, nó nói: 'Chính các người mới nên đầu hàng. Đừng đi loanh quanh với cái mũi to như cái rổ vậy.' Thế là mấy đứa kia tức giận và gọi đồng bọn đến trói nó lại."

Tôi biết rằng Tào Lan đã không ưa Tôn Vệ ngay cả trước Cách mạng Văn hóa. Một ngày nọ trong giờ học, Tôn Vệ đã phát âm lớn âm tiết đầu tiên trong tên của cô lớp trưởng với dấu hỏi thay vì dấu ngang, khiến từ đấy nghe giống như "chịch nhau". Mọi người đã phá lên cười. Mặc dù Tôn Vệ không cố ý, Tào Lan đã để bụng kể từ đó.

“Tầm có hai mươi đứa tham gia đánh đập,” Thanh Hải tiếp tục. "Ngay cả Tào Lan, Tùng Phương và một số đứa con gái khác cũng tham gia. Chân ghế, lò xo cửa, dùi cui và cả chân tay cứ vung vào Tôn Vệ. Thằng Bá Vương đòi tra khảo xem Tôn Vệ đã đánh cắp nhiêu tiền để mua bộ quần áo mới cho mình. Tôn Vệ khai là mẹ nó đã mua bộ vest bằng số tiền kiếm được từ vài tháng làm việc trên khung cửi. Bá Vương yêu cầu Tôn Vệ cởi bỏ bộ đồ song nó cứ phản kháng, nên bị ăn đòn dữ dội hơn. Tôi không thể chịu đựng được tiếng la hét và rên rỉ của nó nữa, vì vậy tôi đã chạy khỏi phòng."

Trong vài phút, chúng tôi lê bước dọc theo ao đóng băng mà không nói một lời nào. Âm thanh duy nhất là tiếng chân chúng tôi lạo xạo trên tuyết.

"Các thủ lĩnh của Quân Đoàn Hồng Đông đã triệu tập cái cuộc họp khẩn cấp đó, để vạch ra kế hoạch che đậy. Họ đã thông qua một nghị quyết gồm bốn điểm: một, Tôn Vệ đã kích động dẫn tới đánh đập; hai, Tôn Vệ chết vì suy tim do bệnh kinh niên; ba, mọi hành vi đánh đập từ giờ trở đi sẽ bị hạn chế ở phần dưới hông; bốn, mọi nỗ lực lợi dụng vụ việc này để chống lại Quân Đoàn Hồng Đông sẽ bị đàn áp."

Thanh Hải nói với tôi rằng nó đang viết nhật ký bằng mật mã. Nó còn nói thêm: “Tôi đã giữ lại chiếc khăn bịt mắt và dây thừng mà chúng nó dùng để trói Tôn Vệ. Ở một đất nước xã hội chủ nghĩa như chúng ta, những kẻ giết người đừng mong thoát khỏi sự trừng phạt. Chúng ta không thể để chúng thoát tội giết người được." Vài ngày sau, nó đưa cho tôi các tang vật dính máu. Tôi giấu chúng trên xà nhà phía trên trần nhà trong phòng của mình.​
 
39. BA CÁI TRUNG THÀNH VÀ BỐN CÁI YÊU VÔ BIÊN

“Phàm thế cuộc trong thiên hạ, chia rồi lại hợp, hợp rồi lại chia.” Ông ngoại tôi thường trích dẫn câu mở đầu này trong Tam Quốc Diễn Nghĩa. Nó dường như đang đúng với tình hình tại trường.

Sau một thời gian dài hỗn loạn, một trật tự mới đang được hình thành. Ủy ban Cách mạng của trường chính thức được thành lập với đoàn diễn hành và tiệc ăn mừng vào tháng Giêng. Phải mất đúng một năm để ông Phương Bảo thực hiện ước mơ giành quyền lực từ Đảng ủy của trường. Bây giờ ông anh đó được tôn là Phó Chủ tịch Ủy ban Phương Bảo. Thầy hiệu trưởng Ngô Độc là chủ tịch, đại diện cho cán bộ lão thành cách mạng. Cựu trưởng phòng Tài chính của trường đại diện cho các giáo viên và nhân viên, vì ông ấy là người duy nhất đã ủng hộ Quân đoàn Hồng Đông. Các thành phần còn lại của Ủy ban đều là do Quân đoàn Hồng Đông nắm giữ; không cần phải tranh cãi về việc cấm bất kỳ thành viên Hồng Kháng Quân nào tham gia. Hai sĩ quan quân đội phục vụ như những giám thị. Họ đã điều nguyên cả một trung đội của Sư đoàn 73 đến để củng cố cái mà tờ báo Bản tin Chiến trường gọi là "Tân Hồng Cách Mạng". Tờ Bản tin Chiến Trường giờ đã là tờ báo duy nhất được ấn bản ở trường.

Ngoài Vưu Linh, coi như đã bỏ đi, chị Hoán Thiên và Tôn Vệ, đã từ bỏ cõi đời, Tam Hỷ vẫn đang nằm trong bệnh viện ở Bảo Định, và Viện Triều đã mất tích kể từ lúc Hồng Kháng Quân chiến thắng tại Bệnh viện Quân đội, tất cả mọi người trong lớp 85 đã trở lại trường học. Nhị Xú và tôi miễn cưỡng chuyển đến căn phòng bên cạnh phòng tra tấn của thằng Bá Vương, vì Ủy ban Cách mạng muốn chúng tôi ở cùng nhau trong các nhóm lớp. Tôi lén mang theo hai tang vật bịt mắt và dây thừng thấm máu và tôi chôn chúng dưới nền gạch, dưới nơi Tôn Vệ đã ngã xuống.

Có lẽ thằng Bá Vương muốn ra vẻ ôn hòa hơn, hoặc có thể nó khao khát ánh nắng mặt trời và không khí trong lành. Vì bất cứ lý do gì, nó và những thằng thuộc hạ bỏ chăn từ cửa sổ của phòng tra tấn xuống và thay chúng bằng giấy. Tuy nhiên, chúng vẫn không ngừng hành hạ những ai xấu số. Hầu như đêm nào tôi và Nhị Xú cũng bị đánh thức bởi tiếng la hét và rên rỉ đến từ phòng bên cạnh. Nhị Xú sợ bọn đấy sẽ đến bắt nó vì tội trốn khỏi nhà tắm hồi trước, nhưng chuyện đó đã không xảy ra.

Một đêm nọ, tiếng la hét trở nên khủng khiếp đến nỗi chúng tôi phải thức dậy để nhòm trộm qua một vết rách trên tờ giấy che. Bọn địch cùng lớp của chúng tôi đang thẩm vấn một thành viên Hồng Kháng Quân cấp cao, anh ấy bị treo ngang sàn với hai tay bị trói sau lưng, buộc vào một ròng rọc cố định trên xà nhà. Chúng ép anh ấy phải thú nhận số tiền đã đánh cắp trong cuộc chiến phe phái. Câu trả lời là không, và thế là chúng nó đánh và đá anh tới tấp cho đến khi anh ấy khai đã lấy 20 tệ. Không hài lòng, chúng lại tẩn anh ấy thêm vài cái nữa. Con số tiếp tục tăng cho đến 800 tệ. Lúc này, chúng nó nhận thấy có vẻ vô lý và yêu cầu anh ấy nên thành thật khai ra số tiền đã trộm được. Nạn nhân khai là đã không lấy gì cả và chém gió vì không thể chịu đựng được tra tấn.

Nhị Xú và tôi rất phấn khởi khi những vụ tra tấn được dừng lại để tập trung cho một chiến dịch mới. Được gọi là Ba lòng trung thành và Bốn tình yêu vô biên, nó được cho là bắt nguồn từ một căn cứ không quân gần Thạch Gia Trang, nhưng không ai thực sự chắc chắn. Ba lòng trung thành là trung thành với Mao Chủ tịch, trung thành với Tư tưởng Mao Trạch Đông, và trung thành với đường lối cách mạng vô sản của Mao Chủ tịch. Bốn tình yêu vô biên là tình yêu vô biên với Mao Chủ tịch, tình yêu vô biên đối với Tư tưởng Mao Trạch Đông, tình yêu vô biên đối với đường lối cách mạng vô sản của Mao Chủ tịch và tình yêu vô biên đối với những Trụ sở cách mạng vô sản do Mao Chủ tịch đứng đầu.

Chiến dịch bao gồm trang trí các lớp học của chúng tôi, trích dẫn những câu danh ngôn của Mao Chủ tịch và ba bài báo được đọc nhiều nhất của Người, đồng thời công khai tuyên bố tình yêu và lòng trung thành của chúng tôi với Mao Chủ tịch. Lớp 85 dán một tấm áp phích Mao Chủ tịch trong bộ quân phục lên bức tường phía sau. Bên dưới, chúng tôi vẽ những con sóng biển và những con tàu, và một bức tranh bình minh đỏ rực ở chân trời. Dưới đó, chúng tôi đã viết dòng chữ "Người chỉ huy con thuyền cách mạng", bắt chước lối thư pháp của tướng Lâm Bưu. Phía trên bức tranh có viết "Kính chúc người lãnh tụ, người thầy, người chỉ huy, và người cầm lái vĩ đại, Chủ tịch Mao trường thọ trăm tuổi,” bằng chữ viết tay của nhà thơ Quách Mạt Nhược, người hoạt động cách mạng hăng hái đến mức trong chiến dịch xóa bỏ Bốn cái cũ, ông đã tuyên bố tất cả các tác phẩm trước đây của mình là rác rưởi.

Mỗi buổi sáng hàng ngày, chúng tôi tập hợp trước ảnh của Mao Chủ tịch, giơ cao cuốn Hồng bảo thư lên và hô vang "Chúc vị lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch của chúng ta trường thọ, và chúc những đồng chí thân thiết của Người mãi mãi khỏe mạnh!" Chúng tôi sẽ hát bài "Ra khơi Nhờ tay lái vững." Sau đó, chúng tôi sẽ đọc những trích dẫn phù hợp với chương trình nghị sự trong ngày. Nếu đi dự những buổi học của sư đoàn 73, chúng tôi sẽ hô khẩu hiệu “Quân dân một lòng, thiên hạ ai sánh kịp?” Nếu chúng tôi tham dự dự mít tinh đấu tố anh Mạnh Triết và bí thư Đinh Di, khẩu hiệu sẽ là “Tên phản động nào cũng như nhau, phải đánh tới cùng”. Mỗi tối trước khi đi ngủ, chúng tôi lại tập hợp lại để ca hát, đọc khẩu hiệu, vẫy Hồng bảo thư và báo cáo với Mao Chủ tịch về những việc chúng tôi đã làm trong ngày. Những thói quen này vào đầu và cuối ngày được gọi là "Nhận lấy chỉ thị vào buổi sáng và báo cáo lại vào buổi tối."

Chiến dịch trở nên sáng tạo và đa dạng hơn. Các cuộc thi trích dẫn Mao Chủ tịch trở nên phổ biến. Tào Lan có thể đọc hết một mạch 270 trang Hồng bảo thư không sót một chữ. Hướng Vân có thể trích dẫn bất kỳ câu trích dẫn nào ngay khi đưa cho con bé số trang và câu thứ mấy. Tôi không giỏi ở phần trích dẫn cho lắm, nhưng đã gây ấn tượng với mọi người bằng việc tôi đọc thuộc lòng tất cả 37 bài thơ đã xuất bản của Mao Chủ tịch một cách hoàn hảo. Còn thằng Bá Vương đã làm mọi cách có thể để tránh những cuộc thi này.

Các điệu nhảy là một cách khác để bày tỏ lòng trung thành của chúng tôi với Mao Chủ tịch. Bài phổ biến nhất được viết theo điệu nhạc Tây Tạng, "Trên ngọn đồi vàng của Bắc Kinh." Để thực hiện chỉ thị của Mao Chủ tịch là "chống lại sự ích kỷ và bác bỏ chủ nghĩa xét lại", chúng tôi đã áp dụng kiểu "cặp đồng chí đỏ" của Quân đội Giải phóng Nhân dân. Nhị Xú và tôi tự nhiên hợp thành một cặp đồng chí đỏ. Bọn bạn cùng lớp gọi chúng tôi là "cặp đen." Có thể chúng nó đúng, vì bọn tôi chưa bao giờ phê bình và tự phê bình lẫn nhau như theo chỉ thị. Thay vào đó, khi chỉ có hai chúng tôi, chúng tôi nguyền rủa Quân đoàn Hồng Đông.

Chiến dịch này đã dẫn đến một phong trào “làm cách mạng trong đời sống hàng ngày”. Nó bao gồm việc thay thế cuộc nói chuyện hàng ngày bằng những câu trích dẫn của Mao Chủ tịch. Khi ra khỏi giường vào buổi sáng, thay vì nói: "Chào buổi sáng", ta sẽ nói: "Hãy thực hiện cuộc cách mạng cho đến cùng". Khi đi ngủ, mọi người sẽ nói: "Đừng bao giờ quên đấu tranh giai cấp." Mọi người chào nhau bằng câu: "Vì nhân dân phục vụ". Nếu ai đó mua bất cứ thứ gì, dù là vé xem phim, bút chì hay chai nước tương, giao dịch phải bắt đầu với một câu trích dẫn. Điều này là rắc rối cho những người già có trí nhớ kém, nhưng không ai dám phản đối. Người ta phải hy sinh một số sự thoải mái của cá nhân để làm cách mạng.

Những câu danh ngôn của Mao Chủ tịch khá hữu ích trong nhiều tình huống. Một hôm ở chợ, tôi nghe thấy một bà nội trợ và một cô bán hàng rao bán rau củ. Bà nội trợ chọn cà chua rất cẩn thận, xem xét kỹ lưỡng từng quả một vì chúng rất đắt vào mùa đông. Người bán hàng vẻ không hài lòng nói: "Hãy chống lại sự ích kỷ và bác bỏ chủ nghĩa xét lại." Bà nội trợ trả lời: “Người c.ộng sản chúng ta phải chú ý đến lương tâm”. Cuộc đấu khẩu cứ thế tiến dần đến một vụ ẩu đả. Một người ở hàng bên đã sử dụng một danh ngôn khác để ngăn chặn ẩu đả xảy ra.

Chiến dịch Ba lòng trung thành và Bốn tình yêu vô biên là một bước phát triển tích cực đối với cả Nhị Xú và tôi. Việc thực hiện nó được ưu tiên hơn so với sự đối đầu giữa chúng tôi và bọn bạn Hồng Đông cùng lớp. Việc chấm dứt tra tấn ở phòng kế bên cho phép chúng tôi ngủ ngon hơn. Chúng tôi không còn phải lo lắng từng phút cả ngày lẫn đêm.

Tin tức về việc phục chức của bố tôi đã nâng cao tinh thần của tôi hơn nữa. Đài phát thanh trung ương đã phát đi một câu chuyện về hội thảo nghiên cứu Tư tưởng Mao Trạch Đông mà bố tôi đã tham dự ở Thạch Gia Trang, và đề cập đến đồng chí Cao Sơn Quế, như một tấm gương của một cán bộ cách mạng điển hình đã đi vào quần chúng để cầu xin sự tha thứ và đã gia nhập Ủy ban cách mạng mới. Nhị Xú chúc mừng tôi và nói, "Bây giờ mày không còn mang danh là con của một tên đi theo con đường tư bản nữa rồi, giờ mày đã là con trai cán bộ cách mạng." Câu chuyện cũng xuất hiện trên tờ Nhân dân nhật báo. Tôi đến trung tâm thị trấn để mua tờ báo cho riêng mình và dán lên tường phòng ký túc. Tôi đã mời một số đứa cùng lớp trong Quân đoàn Hồng Đông để xem dự án radio mới nhất của tôi, chỉ để cho chúng liếc qua tờ báo.
 
Sửa lần cuối:
39. BA CÁI TRUNG THÀNH VÀ BỐN CÁI YÊU VÔ BIÊN (tiếp)

Sau tin tốt đó là một tin rất xấu. Tam Hỷ khi trở về trường chỉ còn là cái xác vô hồn. Mỹ Hồ, với vẻ mặt chế giễu, đã báo tin cho Nhị Xú và tôi. Một số đứa học sinh của Quân đoàn Hồng Đông đang đứng bên ngoài căn phòng nơi Tam Hỷ nằm. Một người khác nói bóng gió, "Hãy nhìn xem, lũ cáo già đã đến để khóc cho cái chết của con thỏ đáng thương." Tam Hỷ nằm dài trên hai chiếc bàn kê sát vào nhau, mắt nhắm nghiền, miệng hơi há ra như muốn nói điều gì. Khuôn mặt nông dân vốn tròn trịa, hồng hào của nó giờ đã co lại thành một cái đầu lâu được bọc bằng lớp da vàng khè. Tôi nâng một bên tay của nó lên và cảm thấy lòng bàn tay đã chai sần.

Nhị Xú và tôi ở bên cạnh Tam Hỷ cả buổi chiều, không còn biết trời đất như thế nào nữa. Không ai trong chúng tôi có cảm giác muốn dùng bữa tối. Chúng tôi đi ngủ sớm mà không nói chuyện nhưng không thể nhắm mắt được. Tâm trí tôi tràn ngập những kỷ niệm về Tam Hỷ, những trò đùa tục tĩu, sức mạnh trai quê dẻo dai, niềm say mê chiến đấu của nó. Tôi chưa một lần nghe nó phàn nàn về tình cảnh của mình. Tôi nghe thấy Nhị Xú đương trằn trọc trên giường và biết rằng nó cũng đang nghĩ về những điều tương tự.

Tam Hỷ nằm ở trong căn phòng đó tầm hai ngày cho đến khi bố nó đến để đưa về làng để chôn cất. Nhị Xú và tôi đã không nói chuyện với ông ấy, vì chúng tôi đã không đủ can đảm để gặp mặt. Chúng tôi cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm về cái chết của Tam Hỷ. Giá mà Hồng Kháng Quân tiếp tục chiến thắng thì bệnh viện đã không để Tam Hỷ phải chết.

Vài ngày sau, tôi đến Linh Thọ để đón Tết cùng gia đình. Các trích dẫn tuyên ngôn của Mao Chủ tịch được sơn bằng màu đỏ tươi và hình ảnh của Mao Chủ tịch, có tiêu đề là chữ “Trung” nằm gọn trong một trái tim màu đỏ, tô điểm cho các bức tường của các ngôi làng bên đường. Khi xe buýt đi vào địa phận huyện Linh Thọ, một hàng tượng hình người bên đường, một số được đắp bằng bùn, một số khác bằng tuyết, rơi vào tầm mắt. Những người nông dân địa phương đã tạc tượng chúng để chế giễu những kẻ theo chủ nghĩa tư bản. Rất khó nhận ra là tượng phỏng theo hình ai, nhưng vào tình hình hiện tại cũng có thể đoán được danh tính rõ ràng. Chắc chắn là có nguyên thủ quốc gia Lưu Thiếu Kỳ, các bí thư tỉnh ủy và huyện ủy, thậm chí cả cựu bí thư huyện ủy Chính Định - Hán Vinh. Tôi rất vui khi biết rằng bố tôi không có trong đó.

Sự nhiệt tình dành cho Ba lòng trung thành và Bốn tình yêu vô biên ở Linh Thọ thậm chí còn cao hơn ở Chính Định. Hầu như tất cả mọi người trên đường đều đeo một bức chân dung Mao Chủ tịch được buộc trên một chiếc vòng cổ, và một số người già thì cầm bức chân dung đó trước ngực khi họ đi dạo quanh.

Không còn thấy một tấm áp phích nào chống lại bố tôi. Bây giờ ông đã là phó chủ tịch Ủy ban Cách mạng mới của huyện, đã vượt qua cả Mộ Ngân. Tôi rất vui về kết quả cho đến khi tôi được biết rằng thực tế bố tôi chỉ là một bù nhìn. Quyền lực thực sự đang nằm trong tay một nhóm quân nhân, đứng đầu là người đứng đầu Ban chỉ huy quân sự huyện. Bố tôi chỉ chuyên phụ trách sản xuất nông nghiệp và hầu như không có tiếng nói trong vấn đề quyết định chính trị. Tuy nhiên, bố tôi không để tâm đến mấy chuyện này. Khi tôi về đến nhà, ông đã rời nhà đế đến hợp tác xã kiểu mẫu mà mình đang xây dựng, làng Gốm, để đón Tết với những người nông dân ở đó.

Ngày Tết tồi tệ năm ngoái giờ chỉ còn là một ký ức. Một bầu không khí hồ hởi tràn ngập ngôi nhà của chúng tôi căn nhà. Mặc dù vẫn còn nằm liệt giường, ông ngoại vẫn cố gắng ngồi dậy để chỉ đạo chuẩn bị cho việc làm cỗ Tết. "Kiến Hoa, cháu còn nhớ ông đã nói gì với vào hồi Tết năm ngoái khi bố cháu gặp rắc rối chứ?" ông hỏi. "Có phải ông đã dự đoán sai không?" "Tất nhiên là không ạ," tôi nói, "bởi vì ông đã nắm vững chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác." Ông ngoại cười to đến nỗi ho không kịp thở, nên tôi tẩm quất cho ông và khuyên ông nên nghỉ sớm.

Năm nay mẹ tôi đã mua về nhà một phần tư con lợn. Khi mẹ đến ăn sủi cảo vào sáng mùng 1 Tết, bà cũng mang theo những món quà từ trung đoàn xe tăng đã hỗ trợ bố tôi: một túi đựng Hồng bảo thư, song quyển này lớn gấp rưỡi những quyển sách thông thường, và một số huy hiệu Mao Chủ tịch cỡ lớn, trong đó có một huy hiệu to bằng bát súp. Chất liệu dùng để làm huy hiệu được cho là từ những chiếc B-52 bị bắn rơi ở Việt Nam. Các anh em tôi rất vui mừng đến nỗi chúng tôi cùng nhau hát và nhảy theo điệu nhạc mang tên tên "Trên Đồi Vàng ở Bắc Kinh".

Anh Vệ Hoa và tôi trở về trường. Khi chúng tôi rời khỏi nhà, mẹ nói với chúng tôi rằng bố đã viết thư cho ông Phương Bảo, để yêu cầu ông anh này đảm bảo an toàn cho chúng tôi. Với việc bố tôi đã được phục chức hoàn toàn, dĩ nhiên ông anh đấy không thể xem nhẹ một yêu cầu như vậy. Khi chúng tôi bước vào cổng trường, chúng tôi thấy rằng bức tượng Mao Chủ tịch của chúng tôi đã đến. Thân tượng khổng lồ đang nằm trước Tòa nhà Hiệu trưởng, được che phủ một phần bởi tấm bạt. Trên khắp đất nước, nhân dân dựng lên những bức tượng như vậy để bày tỏ lòng trung thành và tình yêu đối với Mao Chủ tịch. Ủy ban Cách mạng của chúng tôi đã đặt hàng từ một nhà máy ở Thiên Tân, ở chỗ đó đang hoạt động suốt ngày đêm để đáp ứng nhu cầu.

Tôi kéo tấm bạt lại để chiêm ngưỡng rõ hơn. Bức tượng Chủ tịch Mao lớn gấp năm lần so với dáng của Người. Chủ tịch bận chiếc áo đại cán bên ngoài và một chiếc mũ quân đội có ngôi sao. Tay phải Người giơ cao, như để hô hào chúng ta làm cách mạng. Khối bê tông được sơn màu hồng nhạt và được tạo kết cấu giống như đá cẩm thạch.

Bức tượng Mao Chủ tịch phải để nằm trên mặt đất vì cái nền chưa hoàn thành. Một cây cổ thụ đã bị đốn hạ và cái hố trống được đổ bê tông ngay vào đó, nhưng ông Phương Bảo nghĩ rằng chưa đủ. Ông anh đã đặt mua thêm một số phiến đá cẩm thạch để che phủ lớp bê tông. Có lẽ chỉ có ông Phương Bảo mới có thể khiến Mao Chủ tịch chờ đợi mà không gây ra rắc rối về mặt chính trị.

Khi các phiến đá cẩm thạch được chuyển đến, thấy chúng quá lớn, ông Phương Bảo đã chỉ định một nhóm giáo viên cắt xẻ chúng tới mức kích cỡ phù hợp. Vì tò mò, tôi bèn ghé qua xưởng nơi họ đang làm việc. Bụi đá bao trùm toàn xưởng. Giáo viên dạy vật lý của tôi, thầy Phong, và giáo viên địa lý của tôi, thầy Lưu cực hữu, đang cắt đá. Giáo viên dạy tiếng Trung Quốc của tôi, cựu sĩ quan Quốc dân đảng, thầy Lý, đang đánh bóng những mảnh cắt bằng máy mài. Một chiếc mặt nạ bằng bông che miệng và những hạt bụi màu hồng bám vào vầng trán đẫm mồ hôi của thầy, khiến thầy trông giống như một vai hề trong kinh kịch.

Tôi đã quan sát thầy khá lâu. Tôi rất muốn gọi tiếng ‘thầy’, nhưng cảm thấy hoàn cảnh lúc này khiến hơi gượng gạo. “Đó có vẻ là một công việc thú vị đấy thầy ạ.” Cuối cùng tôi cũng bỏ qua định kiến và nói. Thầy Lý nhìn tôi, đôi mắt thầy vẻ lạc quan hiện lên phía trên chiếc mặt nạ. "Thầy thấy rất vui khi có cơ hội để cải tạo bản thân thông qua công việc quan trọng như thế này." Thầy nói.

"Em có thể giúp gì được không ạ?" Tôi hỏi.

"Không, cảm ơn em. Nhưng ở đây bụi quá. Tốt hơn là em nên rời đi."

"Hãy cứ để em thử, chỉ một lúc thôi." Tôi khảng khái nói.

Thầy Lý bèn dừng tay lại và tìm cho tôi một chiếc mặt nạ. Tôi giúp thầy giữ những phiến đá cẩm thạch dựa vào bánh xe đánh bóng. Hai thầy trò mải làm và không nói với nhau một câu nào. Chúng tôi cảm thấy không cần phải nói chuyện. Cảm giác quay lại như thời xưa trước khi Cách mạng Văn hóa diễn ra, khi giáo viên và học sinh vẫn còn hòa thuận với nhau. Tôi cảm thấy rất hài lòng với những tay ngưu quỷ xà thần này nên tôi đã quay trở lại xưởng và giúp đỡ thầy Lý trong vài ngày. Nhị Xú phàn nàn rằng tôi đã không dành thời gian với nó.

Cuối cùng, tượng Chủ tịch Mao đã được đứng ngay trên lớp nền cẩm thạch màu hồng lấp lánh của mình. Đó chắc chắn là một cảnh tượng vĩ đại. Một tấm bảng bằng đá cẩm thạch trắng ghi rằng: "Lãnh tụ vĩ đại, người thầy vĩ đại, vị chỉ huy tối cao vĩ đại và người lái thuyền vĩ đại, Mao Chủ tịch, được dựng lên bởi Ủy ban Cách mạng của Trường trung học Hồng Đông của Chính Định và tất cả các Hồng vệ binh của Quân đoàn Hồng Đông, tháng 2 năm 1968." Trường của chúng tôi từ nay về sau sẽ được gọi là trường trung học Hồng Đông, ông Phương Bảo thông báo vậy. Các thầy Lý, thầy Phong và thầy Lưu không được phép tham dự buổi lễ, vì tất cả bọn ngưu quỷ xà thần đã bị giam giữ trong phòng riêng của họ.​
 
Sửa lần cuối:
40. BỊ ÉP BUỘC BỞI SỞ THÍCH

Cái nhiệt huyết của chiến dịch Ba lòng trung thành và Bốn tình yêu vô biên đã nguội lạnh sau khi ra Tết. Bọn bạn cùng lớp thuộc Quân đoàn Hồng Đông tìm những niềm vui mới. Chúng lục tung nhà kho của trường và tìm thấy một số nhạc cụ. Giờ đây những tiếng violon réo rắt và tiếng kèn ngang phè phè quấy nhiễu giấc ngủ của chúng tôi. Chúng nó cũng cầm súng ngắn và bắn đạn lên lớp học mái nhà. Khi chán mấy việc đó, chúng lại ném lựu đạn xuống ao sau trường.

Tôi đã tận dụng khoảng thời gian này để chế tạo một chiếc radio có năm bóng bán dẫn. Ngay khi tôi hoàn thành công việc và đang điều chỉnh để bắt sóng đài phát thanh trung ương, một tiếng nổ đã xảy ra bên ngoài. Thằng Bá Vương và Song Căn đang đứng đó cười hô hố trong khi khói bốc lên từ cái hố mà tôi đã đào để đổ nước giặt bẩn. "Trời đang ấm lên rồi," Song Căn nói. "Cái hố này giờ không cần nữa. Nổ để làm đầy hố có khi dễ hơn lấp đất vào."

Một vụ nổ khác tiếp tục xảy ra, và tôi lại chạy ra ngoài hóng. Bá Vương, Song Căn và Mỹ Hồ đang đứng quanh một cái hố khác vừa bị cho nổ.

"Cái đó nguy hiểm đấy," tôi nói. "Chúng mày không nên ở sát như vậy."

"Vớ vẩn!" Bá Vương nói. "Bọn này đang thí nghiệm để xem khoảng cách an toàn là bao xa."

"Chẳng phải mấy ông bộ đội kia nói rằng luôn có một nơi an toàn sao?" Song Căn nói. “Nằm đúng chỗ, đúng lúc thì sẽ bình an vô sự”.

Bá Vương quay sang Song Căn và nói với một nụ cười khinh bỉ: “Tao mà không dũng cảm đi trước thì chúng mày cũng chẳng có gan mà làm.”

"Nhưng cả bọn đã cùng nhau thử nghiệm mà?" Mỹ Hồ nói.

"Ầy dà, nhìn cái khuôn mặt chết nhát của mày kìa!" Bá Vương nói. "Đừng có mà ra vẻ dũng cảm như vậy!"

Tôi vừa quay vào trong nhà thì ba đứa chúng nó cũng bước theo vào và dán mắt vào chiếc radio của tôi. Bá Vương nhặt nó lên và lần mò với các nút bấm. “Cho tao mượn cái này vài ngày,” nó nói. Trước khi tôi kịp trả lời, nó lấy trong túi ra một nắm đạn và ném vào bếp than cạnh đó. Nhị Xú và tôi liền cúi xuống khi đạn nổ. Thằng Bá Vương thậm chí còn không nao núng. “Vậy là coi như mày đã đồng ý nhé!”, nó nói. Nó rời đi cầm theo chiếc radio, hai thằng kia bước theo sau.

Tôi đã dành hai tuần để làm chiếc đài này, thậm chí còn bỏ bữa ăn nhiều hơn thường lệ để tìm mua các linh kiện. Tôi muốn khiếu nại vụ trấn lột này với thầy Ngô Độc, chủ tịch Ủy ban Cách mạng, nhưng Nhị Xú đã ngăn cản tôi, nói rằng điều đó sẽ chỉ gây thêm rắc rối. Nhị Xú và anh Vệ Hoa đã cho tôi vay tiền để chế tạo thêm một cái radio khác. Cái này thậm chí còn tốt hơn, có tám bóng bán dẫn và nhận được sóng từ các đài xa hơn. Chúng tôi thậm chí còn nghe đài phát thanh từ Moscow chỉ trích Cách mạng Văn hóa, tất nhiên là trong bí mật, bởi vì "nghe đài của kẻ thù" là một tội nghiêm trọng.

Thằng Bá Vương nghe được về chế tác mới của tôi. Nó liền đến với chiếc radio năm bóng bán dẫn và có ý rằng muốn đổi lấy chiếc radio tám bóng bán dẫn. Tôi thừa biết rằng nếu từ chối, nó sẽ lấy cả hai, vì vậy tôi phải đồng ý. "Nếu thích radio đến vậy, tại sao mày không học cách chế tạo chúng, thay vì mượn của tao?" Tôi nói. Bá Vương trả lời là sẽ bắt tay vào việc ngay.

Ngay buổi chiều hôm đó, nó đột nhập vào phòng thí nghiệm vật lý để lấy cắp tài liệu và dụng cụ. Phòng tra tấn của Bá Vương và lũ bạn được chuyển thành xưởng phát thanh. Tôi dạy cho chúng nó những nguyên tắc cơ bản của các linh kiện và vẽ cho chúng nó sơ đồ mạch hai bóng bán dẫn và bốn bóng bán dẫn. Tuy nhiên, Bá Vương không có hoa tay cũng như sự kiên nhẫn để lắp ráp một chiếc radio. Thành phẩm của nó là một mớ các linh kiện được lắp ráp bừa bãi, nên nó tức điên và đập nát tác phẩm bằng chuôi súng lục. Những đứa còn lại cũng không khá hơn là bao. Chỉ có Song Căn thành công, radio của nó có thể hoạt động được và âm thanh như tiếng muỗi kêu.

Thằng Mỹ Hồ xuất hiện trong phòng tôi vào một buổi sáng sớm và yêu cầu tôi sang phòng bên cạnh, trấn an tôi rằng không có gì phải sợ. Ở đó, một đống lộn xộn các linh kiện radio và dây điện nằm rải rác trên những chiếc bàn, những nhạc cụ nằm vất vưởng trên sàn nhà. Phe địch cùng lớp ngồi nhìn chằm chằm vào tôi từ những chiếc giường tầng được kê sát tường. "Kiến Hoa," Bá Vương nói với vẻ thân thiện, "Mày sẽ được nhận nhiệm vụ làm kỹ sư radio của cả lớp, giúp bọn này chế tạo radio. Nếu mày làm tốt, mọi người ở đây sẽ chấp nhận mày gia nhập Quân đoàn Hồng Đông."

Nó cũng nói với tôi một số quy tắc. Tôi không được phép rời khỏi phòng ký túc xá đó. Thức ăn sẽ được sẽ giao bởi Nhị Xú. Tôi không được phép truy tìm nguồn gốc của các bộ phận và công cụ. Tôi sẽ phải làm việc nhanh nhưng phải duy trì chất lượng tốt. Tôi sẽ phải làm cho những chiếc radio hỏng của chúng nó hoạt động trở lại, đồng thời chế tạo một chiếc radio có chứa tám bóng bán dẫn cho Bá Vương, một cái chứa bảy bóng bán dẫn cho Song Căn, và năm chiếc năm bóng bán dẫn cho các thành viên hoạt động tích cực nhất của Quân đoàn Hồng Đông. Thằng Mỹ Hồ đủ điều kiện nhận đài radio năm bóng bán dẫn vì đã phục vụ xuất sắc với tư cách là tay truyền tin hiệu quả của ông Phương Bảo. Sau khi tôi hoàn thành lô radio đầu tiên, tôi có thể bắt đầu với nhiệm vụ tiếp theo: Chế tạo radio cho mọi thành viên Quân đoàn Hồng Đông trong lớp tôi.

Không có quyền từ chối cái “vinh dự” lớn lao này, tôi nghiễm nhiên trở thành nô lệ của chúng. Nhị Xú được giao nhiệm vụ làm quản gia của tôi. Bị ép buộc, nó cũng tiếp tục vai trò làm thợ cắt tóc của lớp. Tôi đắm mình trong công việc mới. Mùi thiếc hàn khiến tôi trở nên vô tư lự với tình hình bên ngoài. Kỹ năng của tôi được cải thiện nhanh chóng, và với mỗi cái radio sau tôi lại dành ít thời gian để lắp ráp hoàn chỉnh hơn cái trước. Tôi tuân thủ tất cả các quy tắc được đưa ra và tranh thủ tự tạo ra một số quy tắc cho riêng mình: Chẳng hạn, tôi được quyền biển thủ một số bóng bán dẫn tốt nhất cho riêng mình.

Trong khi đó, những kẻ giam cầm tôi lại tiếp tục nghịch súng và lựu đạn. Điều này dẫn đến thương vong đầu tiên trong nội bộ phe địch. Một quả lựu đạn phát nổ trên tay phải của Mỹ Hồ. Bệnh viện huyện đã cứu mạng nó nhưng không thể cứu được cánh tay. Khi Nhị Xú và tôi biết được, chúng tôi đồng ý rằng nó xứng đáng bị như vậy.

Một ngày sau vụ tai nạn, Bá Vương tạm tha cho Nhị Xú và tôi khỏi nhiệm vụ của mình để chuyên tâm giải quyết trường hợp của Mỹ Hồ. Chúng tôi đang nằm trên giường của mình, tận hưởng sự tự do vừa mới có được thì anh Chu Đức, cựu biên tập viên của tờ Hồng Kháng Quân, bước vào. Nhìn quanh một cách lấm lét, anh ấy mở một gói giấy nhỏ trong túi ra và lấy ra một vật giống như một que tăm nhỏ.
"Mấy đứa có biết cái này là cái gì không?" Anh Chu Đức hỏi. Nhị Xú và tôi lắc đầu. "Đây là ngón út của thằng Mỹ Hồ chứ còn gì!" Anh phá lên cười. "Tớ tìm thấy nó trong sân tháp chuông. Những anh chị em Hồng Kháng Quân khác đã tìm thấy những mảnh cánh tay của nó và ném hết vào cái ao phía sau trường để cho cá ăn!" Vẻ mặt của anh Chu Đức chuyển từ vui mừng sang tức giận khi anh nói thêm, "Cái ngón tay chết tiệt này là sự trả giá quá nhỏ cho lượng máu của đồng đội chúng ta đã phải đổ." Nói xong anh ném mẩu ngón tay vào bếp của chúng tôi. Ngọn lửa bùng lên và xèo xèo, và một mùi khó chịu tràn ngập căn phòng.

Mỹ Hồ không quay lại trường cho đến lúc đầu tháng Ba. Vào thời điểm đó, tám đứa Hồng Đông trong lớp chúng tôi chuẩn bị lên đường nhập ngũ. Thông thường, Quân đội Giải phóng Nhân dân tiếp nhận tân binh vào đầu năm. Năm 1967, khi cuộc Cách mạng Văn hóa được ưu tiên hàng đầu, quân đội đã bỏ qua đợt tuyển quân hàng năm. Năm 1968, chúng tôi cũng mong đợi như vậy. Tuy nhiên, với căng thẳng ngày càng tăng ở biên giới Trung-Xô, quân đội đã đột ngột tuyên bố mở thêm một đợt tuyển quân.

Ủy ban Cách mạng của trường nói rằng bất kỳ ai, ngoại trừ các thủ lĩnh của Hồng Kháng Quân, đều có thể xin gia nhập quân đội. Nhị Xú, Vệ Hoa và tôi đều đã nộp đơn xin. Nhị Xú luôn muốn trở thành một quân nhân. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc theo binh nghiệp, nhưng khi tất cả các trường đại học đều đóng cửa, tôi không thể nghĩ ra phương án tốt hơn.

Mặc dù cả ba chúng tôi đều vượt qua cuộc kiểm tra sức khỏe nhưng không ai trong số chúng tôi được chọn. Một số cựu thành viên Hồng Kháng Quân được chấp nhận gia nhập, vì vậy không có lý nào Ủy ban Cách mạng của trường đã phân biệt đối xử với chúng tôi vì quá khứ từng liên kết bè phái. Tuy vậy, mọi người đều biết rằng Ủy ban đã đưa ra những suất ưu tiên cho các học sinh của Quân đoàn Hồng Đông. Hơn một trăm người trong số họ sẽ được nhập ngũ. Có tin đồn rằng Tức Niên, tay chiến lược gia hàng đầu của ông Phương Bảo, được biết đến trong hàng ngũ Hồng Kháng Quân với tên gọi "tên quân sư đầu chó", đã khuyến cáo rằng bất kỳ thành viên nào tay đã dính chàm nên trốn thoát theo cách này. Ông Phương Bảo ở lại, nhưng Tức Niên đã nhập ngũ. Thằng Bá Vương, Song Căn và những đứa khác đã đánh Tôn Vệ đến chết, chắc chắn sẽ thoát tội. Người bạn mới của tôi Thanh Hải cũng sẽ đi, vì nó không thể chịu đựng được cuộc sống tẻ nhạt ở trường nữa.

Khuôn viên vắng tanh khi các hàng học sinh lũ lượt tháp tùng những tân binh đến ga xe lửa. Bá Vương và Song Căn mang theo chiếc radio mà tôi đã làm. Nhị Xú và tôi không thèm tham gia đám rước. Thằng Mỹ Hồ cũng ở lại.

Mỹ Hồi trở lại trường học vào đúng thời điểm tệ nhất cho nó. Các tân binh hăng hái rời đi chỉ khiến nó thêm chán nản. Nó vừa tròn mười bảy tuổi, nhưng với tai nạn vừa rồi, Mỹ Hồ cũng có thể được phép nhập ngũ. Ủy ban Cách mạng của trường đã chi trả tất cả các chi phí y tế và thưởng cho nó một khoản trợ cấp hàng tháng để "phục hồi thương tích trong khi thực hiện các nhiệm vụ cho nhân dân." Nhưng không có gì có thể bù đắp cho việc mất đi cánh tay phải của nó.

Sự mỉa mai và kiêu ngạo mà Mỹ Hồ từng thể hiện ra mặt khi tuân lệnh các chủ nhân Hồng Đông của nó đã không còn. Bây giờ nó chỉ nhìn tôi với vẻ mặt buồn bã, cầu mong sự thông cảm. Tôi luôn tự nhắc mình về những tội ác mà nó đã gây ra cho tôi và các đồng đội. Tuy nhiên, tôi không thể căm hận nó như trước được nữa.

Ngay sau khi những tân binh của trường tôi lên đường nhập ngũ, thủ phủ của tỉnh đã được chuyển từ Bảo Định sang Thạch Gia Trang. Những người thích hóng hớt các sự kiện chính trị nói rằng bác Trần Bá Đạt đã tạo ra sự thay đổi để củng cố vị trí của mình. Vị thư ký của Chủ tịch Mao chưa bao giờ thực sự tin tưởng vào Tập đoàn quân 48 ở Bảo Định. Tuy nhiên cần gì nữa, khi trong tay đã có Tập đoàn quân 93 và Sư đoàn 73 ở Thạch Gia Trang.

Khi Ủy ban Cách mạng tỉnh được thành lập, Nhân dân Nhật báo đã ca ngợi sự kiện này với một bài xã luận có tiêu đề: "Những người con của các nước Yên và Triệu giờ đây đã có lý tưởng cao cả!" Yên và Triệu là hai quốc gia đã chiếm giữ mỗi phần của tỉnh Hà Bắc, trong thời Chiến Quốc hơn hai nghìn năm trước đó. Những người văn hay chữ tốt cũng nói rằng Yên và Triệu ở đây cũng là ám chỉ đến các phe ủng hộ Tập đoàn quân 93 và ủng hộ đơn vị 901, tuy vậy cuộc đấu tranh phe phái vẫn chưa kết thúc.
 
41. CƠN BÃO CẤP 12

Triết lý của ông ngoại là, "Thắng làm vua, thua làm giặc." Kẻ học giả cánh hữu Hồ Thích đã từng nói, "Lịch sử giống như một con búp bê, để người ta tùy thích mà đắp lớp quần áo lên." Những kẻ chiến thắng tại nơi mà giờ được gọi là Trường Trung học Hồng Đông, đã chứng thực những tuyên bố này. Vào mùa xuân năm 1968, bọn họ đã viết lại hoàn toàn lịch sử của một năm rưỡi trước đó.

Ủy ban Cách mạng của trường đã triệu tập một cuộc họp để chính thức tuyên bố Ngọc Lan, cái đứa đã lao mình từ cửa sổ xuống ở Sở Công an, là một liệt sĩ cách mạng. Cũng trong cuộc họp đó, ủy ban đã hủy bỏ tuyên bố tước danh hiệu liệt sỹ của Hòa Bình, thằng bé đã chết như một tù nhân trên xe jeep năm ngoái. Quân Đoàn Hồng Đông đã công bố cuộc triển lãm "cuộc đấu tranh kép" gồm những bức ảnh giả mạo và đã chỉnh sửa. Hình ảnh của các nhà lãnh đạo Hồng Kháng Quân đã được chỉnh sửa để họ trông giống như những tên tội phạm. Một số đứa Hồng Đông của lớp tôi đã được tôn vinh là "những người lính Trường Chinh" trong chú thích cho bức ảnh chúng nó đi tuần dọc theo hành lang trên đỉnh bức tường thành cổ.

Tương lai không chắc chắn cũng như quá khứ dễ dàng bị kiểm soát. Giờ lớp tôi và các lớp khác cùng khóa đáng ra đã lên lớp cuối cấp của trường vào mùa hè vừa rồi. Giờ Nhị Xú đang có ý muốn bỏ học và trở về làng của mình để làm việc trong hợp tác xã. Tôi khuyên nó nên đợi thêm một thời gian nữa và xem các lớp học có mở trở lại không. "Để những tay ngưu quỷ xà thần đó dạy chúng ta à?" Nó ngán ngẩm trả lời.

Niềm hy vọng của chúng tôi đã được hồi sinh vào cuối tháng 3, khi đại tướng Lâm Bưu bắt giữ quyền tham mưu trưởng Quân đội Giải phóng Nhân dân, Dương Thành Vũ, và hai vị tướng khác. Sự việc xảy ra ngay trên sân khấu của Đại lễ đường nhân dân, với hàng nghìn sĩ quan quân đội cấp cao đã chứng kiến. Tướng Dương đã viết một bài báo trên Nhân dân Nhật báo, với tựa đề "Thiết lập chính quyền tuyệt đối tuân theo tư tưởng Mao Trạch Đông, theo một đường lối đặc biệt vĩ đại." Người ta nói rằng Mao Chủ tịch đã ra lệnh bắt giữ tướng Dương vì Người không thích ý tưởng về "quyền lực tuyệt đối" và "đường lối vĩ đại". Lý do mà Nhị Xú và tôi hài lòng với tướng Dương, không hề liên quan gì đến cuộc tranh luận triết học này, hoặc với những tội lỗi khác mà tướng Dương được cho là đã phạm phải ở Bắc Kinh. Chúng tôi rất vui vì tướng Dương từng là cựu chỉ huy của Tập đoàn quân 93. Quân Đoàn Hồng Đông và các tổ chức ủng hộ Tập đoàn quân 93 khác thường khoe khoang là có liên hệ với "Trụ sở cách mạng vô sản" ở Bắc Kinh thông qua tướng Dương. Ông ấy được cho là đã ủng hộ cực lực Tập đoàn quân 93 tại các cuộc đàm phán do bác Trần Bá Đạt chủ trì. Kẻ thù đã mất đi người phát ngôn đứng đầu.

Một lần nữa, phe Hồng Kháng Quân lại bắt đầu nhen nhóm niềm hy vọng về một sự tái sinh. Niềm vui ra mặt của chúng tôi khiến những phe Quân Đoàn Hồng Đông phải cảnh giác. Một ngày nọ, một số người trong số họ tình cờ nghe được tôi trích dẫn hai câu trong một bài thơ Đường cho một cựu lãnh đạo Hồng Kháng Quân:

Lửa đốt dữ dội, sao thiêu được;
Khi gió xuân thổi, lại mọc lên.


Một đại tự báo trích dẫn lời nói của tôi lập tức được đăng lên, làm bằng chứng cho thấy phe Hồng Kháng Quân đang có âm mưu "phản công với tư tưởng phản cách mạng" và kêu gọi các thành viên Quân Đoàn Hồng Đông đánh trả chúng tôi. Tối hôm đó, khi tôi bị triệu tập cùng bọn bạn cùng lớp đứng trước chân dung Mao Chủ tịch, Tào Lan yêu cầu tôi phải thú nhận “tư tưởng bất thường” của mình với Mao Chủ tịch.

Tôi đã cố gắng làm hài lòng bọn bạn cùng lớp của mình, bằng cách nói rằng giờ đây tôi đã cảm thấy hài lòng với sự cai trị của Quân Đoàn Hồng Đông. Chúng nó không tin tôi và bắt tôi đứng ngay trước ảnh chân dung Mao Chủ tịch và xếp hàng thành hình bán nguyệt xung quanh tôi. Thậm chí Nhị Xú được phép đứng cùng chúng. Mỹ Hồ cũng ở đó, nhưng giờ ánh mắt nó như lơ đễnh đi đâu.

"Nói ngay!" Tào Lan ra lệnh. "Tại sao ông lại đọc bài thơ đó với Thư Hoa?"

"Bởi vì anh ấy thích thơ."

"Ông quên rằng hắn là một thủ lĩnh của Hồng Kháng Quân?"

"Con người ta có thể thay đổi. Nếu bọn tội phạm chiến tranh Quốc dân đảng có thể cải tạo lại được, sao một học sinh lại không thể?"

"Đừng giả ngu ở đây nữa," Tùng Phương nói. "Tại sao ông lại chọn bài thơ đó?"

"Bởi vì lúc này đang là tiết lập xuân và cỏ đang mọc."

"Hay ông đang có âm mưu về một cuộc nổi dậy?"

"Tôi đang nói thật mà."

"Mấy đứa chúng mày hiển nhiên vẫn chưa biết điều!" một thằng mà chúng tôi gọi là Trư Bát Giới, chỉ trích tôi. Nó đã từng là một kẻ vô danh tiểu tích trong hàng ngũ kẻ thù, cho đến khi Bá Vương ra đi. Gần đây, nó đã nắm quyền chỉ huy những thằng còn ở lại. "Tao biết là mày không ăn đòn thì sẽ không nói thật mà!" Nó vừa nói, vừa đá vào sau đầu gối tôi.

Khi tôi ngã xuống sàn, Tào Lan đã ngăn Bát Giới đá tôi lần nữa. “Rõ ràng là ông cần Tư tưởng Mao Trạch Đông để tự phê bình và tiến bộ. Vậy nên hãy đọc câu trích dẫn ở trang mười, đoạn hai."

Tôi không thể nhớ ra một chữ nào cả.

Thấy vậy, Bát Giới liền nói: “Rõ ràng, chính xác mày là một tên phản động, thậm chí mày còn không biết các tác phẩm của Mao Chủ tịch. Đừng hòng được phép đứng lên cho đến khi đọc thuộc lòng câu trích dẫn được yêu cầu."

“Có lẽ chúng mình đang hơi quá quắt,” Tào Lan nói. "Được rồi, tôi sẽ gợi ý với ông vài từ đầu tiên, và sau đó dễ không ấy mà. Nghe này: 'Những thứ phản động ...'''

"Những thứ phản động... Những thứ phản động..." Tôi không thể nhớ được.

"Nghĩ kỹ đi. Đối với một người chữ tốt như ông thì dễ lắm."

"Mọi thứ phản động..." Tôi vẫn không thể nghĩ ra phần còn lại của câu trích dẫn. Nhị Xú trao cho tôi một cái nhìn trấn an. Mỹ Hồ đã không còn ở đó nữa. Một số đứa khác bắt đầu chế nhạo: "Đồ ngu xuẩn! Đồ phản động!" Tôi bối rối nhìn quanh. Tôi chợt nhìn thấy mấy cái chổi đót nằm góc lớp qua hàng chân bọn bạn. Câu trích dẫn của Mao Chủ tịch nhảy vào tâm trí tôi. "Mọi thứ phản động đều giống nhau, không đánh thì sẽ không đổ. Theo lẽ thường, chỗ chổi không chạm tới, bụi đâu có tự tiêu," tôi lẩm nhẩm.

"Gần đúng rồi. Hãy thử nhớ kỹ hơn xem." Tào Lan nói. Cố gắng thêm vài lần, tôi mới nhớ ra câu mà tôi đã quên: "Mọi kẻ phản động đều giống nhau, không đánh thì không đổ. Việc này cũng giống như việc quét nhà, theo lẽ thường, nơi chổi không chạm tới, bản thân bụi sẽ không tự tiêu tan."

"Bây giờ hãy nhắc lại mười lần." Tôi liền đọc lại câu đó mười lần. "Rồi thì bây giờ hãy thú tội đi."

"Tôi không có tội gì để thú nhận cả. Tôi đã rút khỏi Hồng Kháng Quân từ lâu và tổ chức Hồng Kháng Quân thực tế không còn tồn tại nữa."

"Tướng Dương Thành Vũ bị bắt, mày không thấy vui sao?" Bát Giới hỏi. "Mày không nghĩ rằng việc bắt giữ vị tướng đó có thể là cơ hội để bọn mày trở lại?"

"Không, không hề."

“Mày nên nhớ rằng, nếu có bất kỳ ảo tưởng viển vông nào, tốt nhất là mày nên dẹp bỏ ngay.” Bát Giới nói. "Quyền lực của Ủy ban Cách mạng sẽ không thay đổi."

Tôi không thể thuyết phục bọn bạn cùng lớp về sự trong sạch của mình. Cuối cùng, chúng nó để tôi đứng dậy và yêu cầu tôi viết một bản kiểm điểm. Tôi viết rằng khi bố tôi lãnh đạo một đơn vị du kích chống Nhật, ông đã biết đến tướng Dương, khi đó vốn chỉ là một chỉ huy một lực lượng Bát lộ Quân; rằng tôi đã nghe nhiều câu chuyện về những đóng góp của tướng Dương với tư cách là chỉ huy lực lượng tiền phương trong thời Vạn Lý Trường Chinh; và rằng tôi cảm thấy tiếc cho tướng Dương và hy vọng ông ấy sẽ được phục chức. Tôi biết sự thông cảm giả tạo này hoàn toàn mâu thuẫn với đường lối cách mạng của Mao Chủ tịch, vì chính Mao Chủ tịch đã ra lệnh bắt giữ tướng Dương. Tuy nhiên, ít ra nó đã làm hài lòng bọn bạn cùng lớp của tôi. Sự đảo ngược tình thế mà những thành viên Hồng Kháng Quân chúng tôi mong đợi đã không hề xảy ra.

Khi mà bụi dâu trên đỉnh tường thành xanh trở lại, phe ủng hộ Tập đoàn quân 93 đã tiếp quản chính quyền mới của huyện Chính Định. Phó chính ủy của Ban chỉ huy Quân sự huyện, người đã chạy sang Thạch Gia Trang để lánh nạn khi các thành viên khác của ban ủng hộ đơn vị 901, đã quay trở lại làm chủ tịch Ủy ban Cách mạng huyện. Ông Phương Bảo làm phó chủ tịch. Tên cùng lớp của anh Vệ Hoa, Môi Sứt, thậm chí còn ngạo nghễ hơn bởi vì ông bố của hắn, một cựu chiến binh Hồng quân, là một thành viên của ủy ban. Ngược lại, bố của thằng Viện Triều lớp tôi, tuy cũng là một cựu chiến binh Hồng quân, đã bị buộc phải từ chức giám đốc bệnh viện quân đội, vì ông ấy đã ủng hộ đơn vị 901. Bố Viện Triều định về hưu ở quê nhà bên tỉnh Giang Tây. Viện Triều và đứa em gái Kháng Mỹ của nó đã đi trước để tìm nhà.

Ông Phương Bảo cũng trở thành ủy viên ban thường vụ của Ủy ban Cách mạng ở Thạch Gia Trang. Anh Chu Đức đảm bảo với tôi rằng: "Lên càng cao thì ngã sẽ càng đau." Nhưng sự nghiệp chính trị của ông Phương Bảo dường như đang trên đà thăng tiến không ngừng.​
 
Sửa lần cuối:
41. CƠN BÃO CẤP 12 (tiếp)

Khi những bụi hoa tử đinh hương nở và khoe sắc tím, chúng tôi lại tham gia vào một chiến dịch mới. Chủ tịch Mao đã có bài phát biểu nói rằng việc kết bè kết phái không hoàn toàn xấu. Các phe vô sản phải đấu tranh với các phe tư sản, và các phe phái vô sản có thể đoàn kết với nhau, nhưng không thể thỏa hiệp với bọn tư sản. Điều này đã truyền cảm hứng cho chiến dịch Cơn bão Cấp 12, nhằm bảo vệ các ủy ban cách mạng vô sản mới thành lập trước những kẻ thù giai cấp. Có lẽ thời điểm này vẫn chưa chín muồi để thành lập một liên minh cách mạng vĩ đại.

Cơn bão cấp 12 đã càn quét khắp Chính Định, đưa các địa chủ, phản động, phản cách mạng, những kẻ theo chủ nghĩa tư bản, "những kẻ điên cứng đầu" và "các phần tử chống quân đội", vào tầm ngắm. Tất cả những kẻ ác kể từ hồi Giải phóng, cộng với các nhà lãnh đạo, các nhà hoạt động và các thành viên không chịu hối cải của phe thua cuộc, đã phải đeo băng tay màu trắng với dòng chữ màu đen ghi rõ tội lỗi của họ.

Bí thư Đinh Di, tất nhiên vẫn là "kẻ theo chủ nghĩa xét lại theo chủ nghĩa tư bản và phản cách mạng hàng đầu", anh Mạnh Triết, "thủ lĩnh hắc ám của bọn cuồng nhân" và chị Kim Phong, "Con điếm lang thang và vợ lẽ của tên thủ lĩnh hắc ám", đã bị bắt lái máy bay vô số lần nữa trên sân khấu trường học. Các giáo viên bị thất sủng cũng bị lôi ra đấu tố tiếp. Tôi thấy thằng Bát Giới đẩy thầy Lý xuống ruộng và dìm đầu thầy xuống bùn. Vào một dịp khác, tôi thấy nó dùng gậy đánh vào cái đầu hói của thầy Lưu. Không lâu sau đó, thầy Lưu đến Bệnh viện quân đội với những vết loét chảy máu và ba phần tư dạ dày của thầy phải bỏ đi.
Bọn Quân đoàn Hồng Đông bắt các học sinh Hồng Kháng Quân phải đeo băng tay trắng và quỳ xuống trước tượng Mao Chủ tịch mỗi buổi sáng, trưa và tối. Các buổi đấu tố vào buổi trưa thường được tổ chức bên ngoài để các học sinh khác nhìn thấy khi đang trên đường đi ăn trưa. Mặc dù thời tiết đã trở nên ấm áp, một số thành viên Hồng Kháng Quân vẫn mặc quần áo mùa đông có lót lớp đệm dày để bảo vệ họ khỏi bị đánh. Những chiến binh kiêu hãnh một thời như anh Hướng Thắng, giờ được gán cho cái tên "tên tướng què hắc ám" và anh Xuân Phi, "tên sứ giả hắc ám", cúi người và khúm núm phục tùng trong khi lũ bạn cùng lớp của họ đá vào đít.

Sự phục tùng của hai người đã giúp họ toàn mạng. Có người không chịu khuất phục, điển hình là chị Vĩnh Thụy, cựu quản lý kho đạn dược của phe chúng tôi. Lũ bạn cùng lớp của chị ấy đã quấy rối chị bằng vô số cách, khiến cho chị không thể ăn ngon ngủ yên được. Một ngày nọ, tôi thấy chị Vĩnh Thụy rửa đi rửa lại bát bám đầy mực in của mình ở bồn rửa trong phòng ăn. Vài ngày sau, tôi chứng kiến chị ấy cố gắng đứng thẳng trong khi lũ bạn cùng lớp kéo tóc cô ấy để buộc đầu cô ấy cúi xuống. Khi chị Vĩnh Thụy không còn sức kháng cự, bọn học sinh kia đã đẩy chị xuống sàn lớp và đá chị bất tỉnh nhân sự. Lát sau, chị hồi tỉnh và có ý muốn đi vệ sinh, nhưng chị không thể đứng dậy được. Nhiều người, có cả tôi đã đến xem xét tình hình, nhưng không có ai dám nhúng tay vào. Chị Vĩnh Thụy lê mình ra ngoài về phía nhà vệ sinh. Cuối ngày, các thành viên Hồng Kháng Quân đã tìm thấy thi thể của chị ấy nằm bên hành lang. Chị được chôn cất bên ngoài bức tường thành phía bắc cùng với những người khác đã chết một cách oan uổng. Có lẽ bọn bạn cùng lớp của tôi đã quyết định rằng tôi không thể gây ra mối đe dọa nào, hoặc có lẽ chúng nó tôn trọng địa vị của bố tôi, vì ngay cả Bát Giới cũng để tôi yên. Nhị Xú cũng thoát khỏi tầm ngắm. Tuy vậy, cẩn tắc vô áy náy, nên một đêm nọ, chúng tôi đào cái bịt mắt và những sợi dây đã trói Tôn Vệ lên và ném xuống giếng trong sân trước tháp chuông.

Anh Vệ Hoa đã không may mắn như vậy. Lúc đầu, bọn bạn cùng lớp của anh đơn thuần chỉ bắt anh xin lỗi Mao Chủ tịch, thậm chí không bắt anh ấy quỳ xuống. Tuy nhiên, vào hôm trời đã khuya, chúng nó lại giở trò đánh đập anh. Một trong những người bạn của anh Vệ Hoa đã đánh thức tôi vào sáng sớm hôm sau để nói với tôi. Anh ấy nói rằng anh Vệ Hoa đã biến mất. Cuối cùng tôi cũng tìm thấy anh tôi đang nằm sõng soài trên băng ghế ở bến xe buýt, để chờ chuyến xe buýt tiếp theo về nhà. Áo khoác của anh bị rách và mặt đầy vết bầm tím và xước. Hai tên Môi Sứt và Hào Hoa đã giăng một cái bẫy khác, gọi bọn thuộc hạ đón lõng ở điểm dừng xe để khiến anh Vệ Hoa mất cảnh giác. Khi xe buýt đến, tôi giúp anh ngồi xuống và khuyên anh nên gặp bác sĩ ngay khi về đến Linh Thọ. Anh chỉ lơ mơ gật đầu. Sau đó tôi được biết, rằng anh Vệ Hoa đã ngất xỉu ngay khi bước vào nhà. Anh ở lại bệnh viện địa phương trong tầm một tuần để chữa trị những thương tổn dưới da.

Các cuộc mít tinh đấu tố vẫn tiếp tục diễn ra ở trường, và số lượng băng tay trắng định tội đang tăng lên theo cấp số nhân. Tôi đã rất ngạc nhiên khi nguyên trưởng phòng tài chính của trường xuất hiện trong buổi đấu tố. Người từng được mệnh danh “Nhà cách mạng duy nhất trong toàn thể đội ngũ nhân viên” đã trở thành “con tắc kè biết biến hình”. Những đứa học sinh từng là đồng minh trước kia, giờ sau khi đuổi ông này khỏi Ủy ban Cách mạng của trường, đã nhốt ông ấy trong một căn phòng và không cho ăn gì ngoài bánh màn thầu làm từ bột khoai lang. Tôi đã bắt gặp ông cán bộ này một lần trong nhà vệ sinh, mệt mỏi vì táo bón khi đang cố đại tiện.

Vào những ngày họp chợ, tất cả các tổ chức chiến thắng trong huyện đã diễu hành và mang theo các nạn nhân của Cơn bão cấp 12 qua các đường phố của Chính Định. Ủy ban Cách mạng của huyện đã mở rộng khu chợ và xây dựng một sân khấu lớn, chuyên để tổ chức các buổi đấu tố. Phong trào lên đến đỉnh điểm vào giữa tháng 6, với một cuộc biểu tình có sự tham gia của tầm mười nghìn người. Anh Mạnh Triết và các thủ lĩnh hàng đầu khác của phe ủng hộ đơn vị 901 đứng trên sân khấu, bị công an khóa chặt tay. Hàng trăm “khách mời đặc biệt” cùng băng tay trắng quỳ dưới đất giữa sân khấu và khán giả. Đây hẳn là kế “rung cây dọa khỉ” như người xưa vẫn nói. Họ kết án một số thủ lĩnh và những người có liên quan, bao gồm cả anh Mạnh Triết phải đi cải tạo lao động. Kết án xong, một tay công an đứng bên liền đá vào phần sau đầu gối của anh Mạnh Triết để khiến anh ngã xuống, rồi kéo hai cánh tay của anh ra sau lưng và tra một cái còng sáng loáng vào cổ tay anh.

Sau cuộc biểu tình vừa rồi, cơn bão có vẻ đã lắng xuống. Một số thành viên Hồng Kháng Quân trước đây đã được điều đi với những tay ngưu quỷ xà thần để trồng rau bên cái ao phía sau trường. Những người khác được phép tháo băng tay trắng và tham gia cùng các bạn cùng lớp. Quân đoàn Hồng Đông thậm chí còn thu nạp một số kẻ thù cũ vào tổ chức của mình bằng cách tạo ra một bộ phận thành viên mới. Các thành viên ban đầu, bây giờ được gọi là ‘Hồng vệ binh’, có quyền đeo băng tay màu đỏ. Những người mới là ‘Chiến binh’ và không thể đeo băng tay màu đỏ. Mặc dù tôi và Nhị Xú chưa bao giờ đăng ký gia nhập, nhưng dù sao thì chúng tôi cũng được gọi là ‘Chiến binh’. Bây giờ chúng tôi có thể hòa nhập với những đứa bạn cùng lớp và tham dự hầu hết các cuộc họp của họ. Chúng tôi vẫn ở trong phòng riêng của chúng tôi nhưng có thể vào phòng bên cạnh tùy thích.

Tôi tiếp tục đọc hướng dẫn sử dụng radio và thử nghiệm các loại mạch điện mới. Còn Nhị Xú đã tập khắc hình Chủ tịch Mao trên mặt bàn bị hỏng. Trong khi đó, đối với những đứa ở phòng bên, cuộc sống trở nên vô nghĩa và nhàm chán. Thỉnh thoảng, chúng mang đến vài giáo viên và bắt họ tát nhau hoặc bò trên sàn nhà. Vào ban đêm, chúng đốt lửa trại bên ngoài ký túc xá để thu hút ve sầu và bắt rồi ăn. Một buổi trưa nọ, tôi bước qua phòng của chúng nó thì thấy cả bọn đang thủ dâm tập thể. Cả lũ trần như nhộng nằm trên giường, cu dựng lên như một hàng súng phòng không, đang có cuộc thi xem ai bắn tinh được cao nhất.

Ủy ban Cách mạng của trường tuyên bố rằng chúng tôi sẽ có hai tháng nghỉ hè, đó là lần đầu tiên kể từ mùa hè năm 1965. Anh Vệ Hoa đã trở lại trường. Sợ rằng những kẻ thù cũ của anh sẽ tiếp tục giở trò hành hung, tôi đã thuyết phục anh nên về nhà sớm. Vào ngày cuối cùng trước kỳ nghỉ, tôi lại đối mặt với kẻ thù của anh.

Hai tên Môi Sứt và Hào Hoa Công Tử đã ra lệnh một trong những tay sai của chúng, triệu tập tôi đến một căn phòng trong Tòa nhà Giáo viên. Khi tôi nói với họ rằng anh Vệ Hoa đã rời đi, tên Hào Hoa liền túm lấy áo tôi và nói: “Anh em chúng mày lại bắt đầu giở trò!” Buông áo tôi ra, hắn khua tay mở chiếc quạt xếp, rồi lại gấp lại, rồi dùng chiếc quạt gấp chọc vào ngực tôi. Tôi lùi lại vài bước. Hắn tiếp tục chọc tôi cho đến khi tôi lùi về bức tường cuối phòng. Đến đó, hắn dùng quạt đập vào đầu tôi và hét lên, "Dừng lại!" Tôi đã dừng lại dưới bức chân dung của Mao Chủ tịch. Chỉ vào bức tranh, Hào Hoa ra lệnh, "Mau thú nhận tội lỗi của mày!" Cũng giống như các đồng đội của mình thú tội trong Cơn bão cấp mười hai, tôi đã cúi đầu ba lần trước ảnh Mao Chủ tịch và nói: "Thưa Mao Chủ tịch vĩ đại, cháu xin lỗi Người, vì cháu đã không nghiên cứu kỹ các tác phẩm của Người, và cháu đã suy đồi tư tưởng trong khi phong ba bão táp của cuộc đấu tranh giai cấp đang diễn ra ..."

Tôi cứ luyên thuyên mãi như vậy cho đến khi Hào Hoa ra lệnh cho tôi dừng lại. Hắn ra lệnh cho tôi quét nền xi măng. Tôi cũng làm theo. Sau đó hắn ra lệnh cho tôi vẩy nước lên sàn để giữ bụi. Tôi đến phòng ăn, mang về một xô nước lạnh và vẩy lên sàn nhà. Miễn là không bị ăn tẩn, tôi không ngại làm hề trước mặt chúng.

Khi tôi hoàn thành nhiệm vụ của mình, Môi Sứt chỉ vào một cái chậu rửa mặt và nói: “Uống một chậu nước lạnh cho sảng khoái rồi mày có thể đi.” Hắn cười khoái trá khi đổ đầy nước vào chậu và đặt nó lên bàn trước mặt tôi. Tôi uống một phần ba chậu nước và đặt cái chậu trở lại bàn. Hào Hoa lại gõ vào đầu tôi bằng chiếc quạt của hắn. Tôi đành bưng cái chậu nước lên và uống thêm một ít nữa, rất chậm. Bụng tôi bắt đầu tức. Tôi đặt nó xuống một lần nữa và nói, "Em không thể uống được nữa đâu."
“Đừng có mà giả vờ,” Môi Sứt nói. "Tao thừa biết mày có thể uống hết được." Tôi cố uống thêm một chút nữa, để nước chảy xuống cằm và bên trong áo sơ mi càng nhiều càng tốt. Khi cái chậu đã cạn tầm 2/3, Hào Hoa mất kiên nhẫn và đổ chậu nước lên đầu tôi.

"Còn bây giờ," hắn nói, "đưa về đây phần tử xấu xa nhất trường."

"Làm sao em biết được ai là kẻ xấu xa nhất?" tôi hỏi. "Các anh phải nói rõ cho em một cái tên, nhỡ đâu người mà các anh muốn gặp lại không đủ xấu xa, các anh lại đánh em."

"Không sao, chỉ cần đưa được cái tên mà mày nghĩ là xấu xa nhất về đây."

Tôi chậm rãi bước ra khỏi tòa nhà khi suy nghĩ về yêu cầu này. Đó sẽ là một quyết định khó khăn, vì bất cứ ai tôi dẫn về cho chúng sẽ trở thành mục tiêu tiêu khiển tiếp theo. Tôi đến tòa nhà đa năng và tìm thấy thầy Chu. Ngay khi thầy ấy chạy lon ton đến tòa nhà Giáo viên như một con dê, tôi đã hối hận về lựa chọn của mình. Thầy Chu có thể là một tên ngưu quỷ xà thần, nhưng thầy ấy chưa bao giờ làm hại tôi. Tôi đuổi theo thầy, song cái bụng đầy nước của tôi đã cản bước tôi lại. Thầy Chu đã đến phòng trước, tôi bèn áp tai vào cửa và nghe thấy Hào Hoa ngạc nhiên nói, "Tại sao ông lại ở đây?"

"Một đứa học sinh nói rằng các cậu muốn gặp tôi."

"Mẹ kiếp, ai muốn gặp một tên ngưu quỷ xà thần như ông? Ông giờ chỉ là một tên thối tha chờ đến buổi đấu tố tiếp theo! Bọn Cuồng nhân kia đâu? Còn ông thì cút đi, đồ khốn kiếp!" Cảm giác tội lỗi nguôi ngoai, tôi rút về phòng, thu dọn đồ đạc và lên đường ra bến xe buýt.

Khi đi ngang qua cái ao sau trường trên đường đến cổng nhỏ dưới tường thành phía bắc, tôi nhìn thấy người thư ký của anh Mạnh Triết, chị Kim Phong, đang làm việc trên một luống cà chua. Chị đi chân trần, ống quần xắn lên đến đầu gối. Lưng áo xanh ướt đẫm mồ hôi, mái tóc bết vào khuôn mặt rám nắng. Trên tay chị vẫn đeo cái băng trắng. Không thấy ai canh chừng chị Kim Phong, lúc này chị chỉ có một mình và có thể dễ dàng bỏ chạy. "Chị Kim Phong ơi, sao chị không chạy trốn?" Tôi hỏi.

Chị ngẩng đầu lên và tiếp lời tôi tôi. "Cảm ơn em đã nghĩ cho chị, nhưng chị không muốn rời đi lúc này. Chị muốn ở gần anh Mạnh Triết", chị nói. "Dù sao thì giờ chị có thể đi đâu được? Chị không có tem phiếu hay tiền bạc. Mọi người xung quanh sẽ nhận ra chị, rồi chị sẽ bị bắt và phải quay lại đây." Chị ấy nói đúng. Chị Kim Phong giờ trông thật tiều tụy và mệt mỏi. Chỉ cần nhìn qua, bất kỳ ai trong huyện cũng có thể đoán ra được rằng chị thuộc phe bại trận.

"Chị Kim Phong, mong chị hãy kiên định và cố sống sót," tôi nói. "Sau cơn giông trời lại sáng." Tôi bắt tay chị, và rời đi mà không quay lại.
 
Sửa lần cuối:
42. QUÁ KHỨ ĐÃ MẤT VĨNH VIỄN

Ông ngoại và các em tôi đã rời khỏi ngôi nhà đắp đất cũ nát để chuyển đến ở một ngôi nhà bằng gạch vững chãi hơn ở phía đối diện thị trấn. Ông ngoại lại đứng dậy chăm lo bữa ăn trong nhà. Dù bước đi loạng choạng và lưng còng, nhưng tay ông múa dao vẫn nhanh nhẹn như hồi trước. Các lớp học vẫn tiếp tục mở ở các trường học chỗ Linh Thọ. Tân Hoa, Mai Nguyên và Nhất Nguyên chuyển sang học tiểu học ở khu phố mới, còn Chỉ Hoa đã vào cấp hai. Chương trình giảng dạy chủ yếu là đọc và nghiên cứu các tác phẩm của Mao Chủ tịch.

Ngôi nhà có vẻ đông đúc hơn sau khi anh Vệ Hoa và tôi chuyển đến vào mùa hè. Lo lắng cho tương lai của mình, anh Vệ Hoa hay suy nghĩ với vẻ bực bội. Trong một lần tức giận, anh đã đập nát cái chuồng thỏ của Chỉ Hoa, khiến thằng bé khóc lóc thảm thiết cả buổi chiều.

Bố tôi quyết định đưa anh Vệ Hoa và tôi đến hợp tác xã ưa thích của ông nằm sâu trong dãy núi Thái Hành. Ông nói rằng làm việc tại hợp tác xã mang tên Dương Đài đó sẽ giúp thay đổi thế giới quan, cũng như để rèn luyện thể lực cho riêng mình. Anh Vệ Hoa và tôi lên đường đến hợp tác xã vào một ngày cuối tháng 7, bắt xe buýt vào trong những ngọn núi và đi bộ thêm 15km nữa qua một thung lũng, đi dọc theo một con sông uốn khúc ở đó. Thung lũng dần thu hẹp lại khi chúng tôi đến gần, và dòng suối thượng nguồn chỉ rộng vài mét khi chúng tôi đến đích - mười hai ngôi nhà nép mình dựa vào sườn núi, những thửa ruộng bậc thang của họ trải dọc quanh sườn núi như những bậc thang đi lên đỉnh.

Sau một tháng làm việc đồng áng, anh Vệ Hoa quyết định rằng mình đã chịu khổ đủ rồi và quá giang trên chiếc xe tải của một vị khách. Tôi cũng đã kiệt sức. Vào buổi tối, khi tôi cùng dân làng tham gia các buổi học về Tư tưởng Mao Trạch Đông, tôi gần như không thể mở mắt ra được. Ban lãnh đạo hợp tác xã liền giao cho tôi công việc nhẹ nhàng hơn tại văn phòng chính của hợp tác xã, giúp năm cô gái thêu tấm thảm của hợp tác xã Dương Đài. Họ muốn dâng tấm thảm cho Mao Chủ tịch nhân Đại hội Đảng lần thứ IX sắp tới.

Tôi trở lại Chính Định vào giữa tháng 9. Những bông lúa nặng trĩu trĩu hạt trên cánh đồng lúa chín vàng. Dù thế nào đi chăng nữa, những người nông dân sẽ sinh sống, gặt hái và ăn uống, như họ đã làm trong hàng ngàn năm. Nhưng nơi mà bây giờ chúng tôi gọi là Trường trung học Hồng Đông sẽ không bao giờ được như trước nữa. Máy xới đất kêu rì rầm, xe tải chạy tới chạy lui giữa những đống đá và bê tông vụn trên sân thể thao. Những phòng học dột nát, tường dày đặc những lớp giấy mực và keo cáu bẩn, nhòe nhoẹt. Bàn ghế đã được đập đi hết để dùng làm củi đốt. Các phòng thí nghiệm khoa học đã bị cướp sạch. Hội trường âm nhạc đã bị cho nổ tung. Nói chung, toàn trường đã trở thành một chỗ tan hoang. Người chết thì đã chết, và những ai còn sống sót đã không còn như xưa. Bàn, ghế, và thậm chí kính hiển vi có thể được thay bằng cái mới, những tòa nhà xuống cấp có thể được xây dựng lại, nhưng sự mất mát về tính mạng và danh dự của các giáo viên từng dạy chúng tôi là không thể cứu vãn. Bằng chính đôi tay của mình, chúng tôi đã phá hủy ngôi trường mình.

Ngay sau khi tôi chuyển về phòng ký túc xá của mình với Nhị Xú, thằng Viện Triều đã xuất hiện trước cửa. Nó muốn nhìn thoáng qua ngôi trường lần cuối trước khi chuyển vào Nam. Bố nó đã bị những lớp người trẻ mới nổi ở Bệnh viện Quân đội loại bỏ và đang mong được nghỉ hưu. Viện Triều đã tìm cho bố nó một nơi yên tĩnh để ổn định cuộc sống. Khi tôi hỏi về đứa em gái Kháng Mỹ của nó, Viện Triều nói rằng con bé đang ở tỉnh Giang Tây với chồng. "Nó đi ăn nhà hàng và thế là gặp một thằng trai làng thuộc một nhóm côn đồ ở quê, và chỉ trong ba ngày chúng nó đã cưới nhau rồi," nó nói. "Cơm đã chín rồi thì sao mà cứu vãn được nữa. Ban đầu bố mẹ tao không đồng ý đâu nhưng vì chúng nó đã ngủ với nhau nên không còn cách nào khác”.
Sau khi Viện Triều rời đi, tôi đã suy nghĩ rằng, cuộc sống thật là khó lường biết bao. Ai có thể ngờ rằng Kháng Mỹ, một cô nữ sinh xinh đẹp, con gái của một cựu chiến binh Hồng quân, lại đi cưới một tên côn đồ ở tuổi mười bảy? Tôi thậm chí còn cảm thấy bối rối hơn về tương lai của chính mình.

Số phận trước mắt của chúng tôi đã sớm được định đoạt: tất cả những người còn ở trường sẽ được phép tốt nghiệp ngay lập tức. Ủy ban Cách mạng huyện đã đưa ra quyết định này, ngay sau khi Ủy ban Trung ương triệu tập một phiên họp toàn thể mở rộng ở Bắc Kinh và tuyên bố Lưu Thiếu Kỳ là "kẻ phản bội cách mạng."

Mao Chủ tịch đã kêu gọi các học sinh tham gia phong trào "Lên rừng núi, về nông thôn để học tập từ những tầng lớp nông dân lao động nghèo." Hầu hết bọn bạn cùng trường, đặc biệt là những người đến từ nông thôn, thích ở lại thị trấn hơn. Trong vòng vài ngày sau khi tốt nghiệp, tất cả các Hồng vệ binh của Quân đoàn Hồng Đông được giao các công việc ở thị trấn, trong các tổ chức và doanh nghiệp nhà nước của huyện. Thằng Bát Giới đến sở Thương mại và Tào Lan đến Cục Công nghiệp nhẹ. Lớp phó Tùng Phương đi làm ở rạp chiếu phim. Thằng Mỹ Hồ trở thành người gác cổng cho Ủy ban Cách mạng huyện. Một vài đứa Quân đoàn Hồng Đông ít hoạt động hơn trở thành bồi bàn và trong các nhà hàng, điều mà chúng nó cho là tốt hơn nhiều so với việc trở về làng để "học tập từ nông dân".

Tất nhiên, những ai từng là thành viên Hồng Kháng Quân lại khác. Những người xuất thân từ các gia đình nông dân trở về làng với những tấm bằng vô dụng. Những người từ thị trấn Chính Định được đưa về một hợp tác xã ở vùng ngoại ô. Tôi nói lời tạm biệt với Nhị Xú, nó sẽ về nhà để cày ruộng. Anh Vệ Hoa và tôi trở lại Linh Thọ. Chúng tôi cảm thấy phẫn nộ trước sự lạm dụng quyền lực của bọn Quân đoàn Hồng Đông, nhưng không thể làm gì được.

Cả anh Vệ Hoa và tôi đều không muốn quay lại để làm việc với nông dân. Khi bố yêu cầu tôi phát biểu tại một cuộc mít tinh dành cho học sinh tốt nghiệp trung học ở địa phương, về phong trào “tiến về nông thôn”, tôi đã từ chối. Nếu phát biểu như vậy thì tôi phải sống đúng y như bài phát biểu, không thể làm khác được. Anh Vệ Hoa cũng từ chối lời mời, nói rằng nếu tất cả bọn Quân đoàn Hồng Đông cùng lớp đã kiếm được việc làm tốt, tại sao chúng tôi phải “tiến về nông thôn”?

Không phải là chúng tôi không có khát vọng. Lúc này, anh Vệ Hoa sẵn lòng trở thành một người đưa thư bằng xe đạp. Tôi nghĩ rằng tôi muốn được làm công nhân nhà máy. Đôi khi Chỉ Hoa cũng tham gia các cuộc thảo luận của chúng tôi, nó muốn trở thành một tay đầu bếp, để nó có thể ăn bù lại lúc đói trong Ba Năm Khó Khăn.

Trong thời gian đó, anh Vệ Hoa làm tình nguyện viên tại hiệu sách của huyện. Mỗi ngày, anh mang về nhà những cuốn truyện tranh lỗi thời mà anh đã nhặt được từ đống rác, đặc biệt là quyển Tam Quốc Diễn Nghĩa dành cho trẻ em và những tác phẩm khác nằm trong mục Bốn cái cũ. Tôi đến thăm ông ngoại, giờ đây bệnh viêm phế quản của ông lại trở nên tồi tệ hơn khi trời trở lạnh. Ông nằm ở trên giường sưởi cả ngày, liên tục nghẹt mũi và khạc nhổ. Tôi pha trà cho ông, ông liền uống ngay từ vòi của một ấm trà nhỏ bằng sứ. Thỉnh thoảng ông nhờ tôi ra ngoài mua thuốc lá, có tác dụng long đờm, để ông có thể hắng giọng, bất chấp lời khuyên của bác sĩ là không được hút thuốc.

Một ngày nọ, ông ngoại vô tình làm vỡ vòi ấm trà. Tôi không thể tìm thấy loại ấm nào giống như vậy trong cửa hàng bách hóa ở thị trấn, vì vậy tôi đã đến Thạch Gia Trang để mua một chiếc ấm mới. Giờ đây Thạch Gia Trang yên tĩnh hơn nhiều so với một năm trước: không còn các đại tự báo, không có các loa phóng thanh đấu khẩu nhau, không còn đánh nhau trên đường phố. Công xã Cuồng nhân giờ đã là dĩ vãng. Bây giờ chỉ còn lại Ủy ban cách mạng mới có quyền lực tuyệt đối. Không ai biết chuyện gì đang xảy ra đằng sau những bức tường cao và kín đáo của Học viện Kỹ thuật Tên lửa, nhưng có tin đồn rằng các học viên đơn vị 901 sẽ sang Việt Nam để thực chiến thực sự và học viện sẽ đóng cửa. Tôi tìm thấy một cái ấm cho ông ngoại trong một cửa hàng đồ sứ và bước lên tàu. Trời đã tối khi tôi đến Chính Định, lúc đó đã quá muộn để đón chuyến xe buýt cuối cùng đến Linh Thọ. Tôi quyết định đến thăm trường cũ của tôi.

Khuôn viên trường học nằm vô hồn dưới ánh trăng. Tôi đi từ dãy nhà này sang dãy nhà khác. Tất cả đều trống rỗng và tối tăm, ngập tràn mùi ẩm mốc. Không muốn ở lại nơi ma quái này, tôi tính đến nhà của lão Lưu trong thị trấn. Sau đó tôi thấy một cửa sổ sáng lờ mờ ở một góc sân trước tháp chuông. Lấy hết can đảm, tôi đi tới gõ cửa.

Cửa mở rộng, kèm với giọng vui vẻ của thầy Lý. "Mời vào!" Hai má thầy ửng hồng. Tôi ngửi thấy mùi rượu mạnh trong phòng. "Tối nay là giao thừa rồi!" Tôi quên mất hôm nay là ngày cuối cùng của năm 1968. “Em xin chúc thầy Lý một năm mới an khang thịnh vượng,” tôi nói khi bước từ màn đêm giá buốt vào căn phòng ấm áp. Đồ đạc trong phòng duy chỉ có một bếp than, một cái bàn và một cái giường.

“Chúc em năm mới. Thầy trò chúng ta nên tận hưởng thời khắc này,” Thầy Lý nói. "Ngồi đi, Kiến Hoa. Đêm nay, hai người chúng ta, một giáo viên, một học trò, phải uống rượu cho đã." Tôi ngồi ở mép giường, thầy Lý đặt một đĩa thịt thỏ hầm trên bàn và nói, "Món hầm vừa mới nấu. Thầy vừa mua ở thị trấn chiều nay." Sau đó thầy rót một ít rượu trong vào một cái bát, đưa cho tôi và nâng lên, "Cạn chén!"

"Vâng thầy Lý, cùng cạn chén!" Rượu cay như đốt cháy cổ họng tôi và làm tôi ho đến chảy nước mắt giàn giụa. "Mau ăn một chút thịt thỏ hầm, em sẽ cảm thấy tốt hơn!" Thầy Lý nói. Tôi đã làm theo lời thầy và thực sự đã cảm thấy tốt hơn. Thầy Lý nhìn tôi, mắt thầy rưng rưng. "Thật vui khi lại được nghe tiếng thầy. Đã lâu không có ai gọi lão Lý này là thầy. Nhưng chúng ta đừng nhắc đến những chuyện cũ lúc này. Hãy nói về những điều mới mẻ và hướng sang năm mới. Kiến Hoa, em có nhớ bài thơ của Bạch Cư Dị về gặp bạn cũ và uống rượu không? Điều đó rất hợp với tâm trạng của thầy vào đêm nay."

Thầy bèn đứng lên ngâm thơ, thân hình đung đưa qua lại, cái đầu trọc sáng bóng quay vòng vòng trong không trung, vẫn như hồi xưa khi thầy ngâm thơ trong lớp:

Gió mát, chiếu trải bên hiên.
Trăng soi chén rượu, còn nghiêng bóng tùng.
Nhàn cư hữu ý vui cùng.
Hay khi bạn tới, vui chung nào bằng.


Niềm hạnh phúc của thầy Lý quả thật có sức lan tỏa. Chúng tôi thức nửa đêm bên chiếc bàn ọp ẹp, uống rượu, ăn thịt thỏ và ngâm thơ Đường. Cuối cùng, thầy dọn bàn và nói: "Chắc đã quá nửa đêm rồi. Chúng ta đã bước sang năm mới. Giờ thì đi ngủ thôi. Thầy trò ta nên sang phòng bên cạnh và khiêng một chiếc giường để cho em ngủ."

"Tại sao phải mất công khiêng giường như vậy ạ?" tôi hỏi. "Em sẽ ngủ ở đó, miễn thầy cho em mượn một cái chăn bông."

"Ban đêm lạnh lắm đấy. Em nên ngủ ở đây với bếp lò."

Chúng tôi cùng khiêng một chiếc giường khác vào căn phòng nhỏ. Đầu tôi vẫn còn choáng váng vì rượu. Hai thầy trò nói chuyện thêm được một lúc nữa. Điều cuối cùng tôi nghe được trước khi chìm vào giấc ngủ, là về những đứa học sinh của Quân đoàn Hồng Đông cho dù kiếm được việc làm ở thị trấn, rốt cuộc sẽ phải trở về làng quê hoặc định cư ở vùng nông thôn.

Chúng tôi dậy khá muộn vào buổi sáng đầu tiên của năm 1969. Thầy Lý vui vẻ tiễn tôi ra cổng. Một người đàn ông như vậy sẽ chào đón bất kỳ ai, kể cả thằng Bá Vương, chỉ để có cuộc vui.

Tại bến xe, tôi gặp thằng Mỹ Hồ và anh trai của nó, người đã từng tại ngũ trong một đơn vị pháo phòng không ở Việt Nam, và giờ đã xuất ngũ vì bị thương. Mỹ Hồ sắp trở về làng của mình sau khi bị cho thôi việc làm bảo vệ cho trụ sở Ủy ban Cách mạng huyện. Ông anh trai của nó đã đến để giúp Mỹ Hồ thu dọn đồ đạc của mình. "Anh Phương Bảo đã chiếu cố tao, nhưng không được rồi." Mỹ Hồ nói. Tôi nhìn tay áo trái trống rỗng của nó rồi nhìn vào mặt. Nó buồn bã quay lại nhìn tôi, rồi lại nhìn xuống áo khoác. Bên tay phải của nó nghịch cúc áo. "Mọi thứ đều ổn cả chứ?" Tôi hỏi. "Mọi người ở nhà mày sau rồi? Còn mẹ mày thì sao, bao lâu tao đã không gặp bà ấy rồi." Tôi đã từng về nhà Mỹ Hồ một lần vào một dịp cuối tuần. Lúc đó mẹ nó điều nó đi lấy bắp cải từ cánh đồng tập thể của đội sản xuất. Khi tôi nói với Mỹ Hồ rằng ăn cắp của tập thể để tư lợi là sai lầm, nhưng nó nói rằng không thể bất tuân với mẹ mình. Tôi đã thề sẽ không bao giờ đến thăm nhà của Mỹ Hồ nữa.

“Mẹ tao vẫn ổn,” Mỹ Hồ nói. "Mẹ cứ hỏi tao tại sao mày không bao giờ đến thăm nhà nữa. Tao cũng chằng biết gì nữa, chắc hồi đó là lỗi của tao. Còn giờ thì tao vẫn ổn, nhưng đôi khi tao vẫn cảm thấy cô đơn. Lũ bạn cùng lớp chẳng ai giữ liên lạc với tao."

"Thôi, hãy quên chuyện cũ đi, dĩ vãng là dĩ vãng, giờ chúng ta nên hướng về tương lai." Tôi không thể nghĩ ra bất cứ điều gì để nói với một người đã mất một bên cánh tay. Mỹ Hồ ngẩng đầu nhìn tôi lần nữa, trong mắt hiện lên vẻ biết ơn. Tôi thoáng nhận ra một Mỹ Hồ chân thành, ngây thơ trong mắt nó. Tôi bắt tay trái của nó để nói lời tạm biệt và lên chuyến xe buýt. Trên đường về nhà, tôi quyết định sẽ lắp cho nó một chiếc radio.​
 
43. BAY XA

Tục ngữ có câu “Xe đến chân núi mới tìm đường lên”. Anh Vệ Hoa và tôi đã đợi ở chân núi hàng tháng trời. Chúng tôi tìm đường lên khi Quân Giải phóng Nhân dân đến Linh Thọ để cho đợt tuyển quân mới.

Đợt này được gọi là "nghĩa vụ quân sự", dù mang tính chất bắt buộc, nhưng trên thực tế không ai bị buộc phải phục vụ trong Quân đội Giải phóng Nhân dân. Những chàng trai nông thôn háo hức tham gia, cốt là để rời bỏ vùng quê buồn tẻ. Khi các trường đại học đóng cửa, những người học sinh tốt nghiệp trung học, giống như chúng tôi, cũng góp phần không nhỏ vào đám đông chờ được mặc quân phục và cầm súng trường.

Anh Vệ Hoa rất hào hứng với việc gia nhập quân đội, tin rằng điều đó tốt hơn nhiều so với việc quay trở lại hợp tác xã Dương Đài, và thậm chí còn tốt hơn là làm người đưa thư. Đối với tôi, đi bộ đội dường như là lối thoát duy nhất. Chúng tôi đăng ký tại trạm tuyển quân của Linh Thọ và các làng xung quanh, cùng với hàng nghìn thanh niên khác.

Vì tôi còn ba tháng nữa mới đủ 17 tuổi, nên tôi đã khai khống là hơn một tuổi để đáp ứng yêu cầu về độ tuổi nhập ngũ tối thiểu là 18. Một cuộc kiểm tra trực quan sơ bộ đã loại bỏ 1/2 số người nộp đơn. Đôi mắt sắc bén của các thanh tra quân đội khiến tôi sởn da gà, nhưng cả tôi và anh Vệ Hoa đều vượt qua bài kiểm tra đầu tiên này.

Ngày hôm sau, chúng tôi quay lại để điền vào tờ khai lý lịch chính trị. Giai đoạn này của quy trình sẽ lại loại bỏ thêm một nửa số ứng viên. Tôi lo lắng về thân phận địa chủ thất thế của bên ngoại của mình có thể làm hỏng cơ hội của anh em chúng tôi, vì vậy tôi đề nghị cả hai sẽ khai bên ngoại là thành phần trung nông, như chúng tôi đã từng làm trong đợt tuyển quân ở trường. Anh Vệ Hoa nói chúng tôi sẽ gặp rắc rối lớn nếu lời khai man của chúng tôi bị phát hiện ra. Mẹ tái mặt khi nghe được ý tưởng đó của tôi và bảo tôi cứ nên khai thật. “Xuất thân cán bộ cách mạng của bố sẽ bù đắp được cho các con,” mẹ quả quyết với tôi. Tôi đã làm như bà ấy nói. Khi tôi nộp mẫu đơn của mình, tôi thấy rằng những tờ khai của người khác trong đống giấy tờ, đều khai xuất thân từ bần nông và trung nông. Tôi luồn cái của mình vào giữa đống tờ khai, vì quá ngại để đặt nó lên trên cùng.

Bất chấp nỗi sợ hãi của tôi, anh Vệ Hoa và tôi đã vượt qua cuộc xét tuyển lý lịch chính trị. Bước tiếp theo là kiểm tra thể chất, một lần nữa sẽ giảm thêm một nửa số lượng ứng viên. Tất cả mọi thứ, từ nhịp tim đến tinh hoàn, đều được xem xét kỹ lưỡng. Chúng tôi có ba lần để vượt qua bài kiểm tra huyết áp. Sau khi trượt hai lần, tôi đã uống một viên thuốc và vượt qua.

Khi triển vọng gia nhập quân đội của chúng tôi ngày càng sáng sủa, ông ngoại ngày càng có tâm tư riêng. Một đêm khi chúng tôi nằm trên giường, ông nói với tôi, "Cháu à, gia nhập quân đội có thể là một lựa chọn, nhưng ông nghĩ cháu nên trở về quê ngoại để làm ruộng, rồi lấy vợ và ổn định cuộc sống. Thủy Nguyên là một nơi thanh bình đấy."

“Ông ơi, cháu muốn nhập ngũ để tiếp tục đóng góp cho cách mạng,” tôi nói. "Cháu thật sự không muốn làm nông dân trong suốt phần đời còn lại của mình."

"Tham gia quân đội và tiếp tục hoạt động cách mạng thì có gì hay chứ? Bố cháu đã cống hiến cả cuộc đời cho cách mạng, nhưng hãy xem những gì đã xảy ra với bố cháu. Dẫu rằng có chức có quyền không phải là điều đáng ghen tị, nhưng ở thời này làm nông dân vẫn là tốt hơn cả." Ông tiếp tục, "Anh Vệ Hoa của cháu muốn nhập ngũ cũng không sao. Tính khí khảng khái của anh ấy rất hợp với điều đó. Nhưng cháu là kiểu người hay suy tư và có học thức, nên cháu không thuộc về quân đội đâu."

"Ông ơi, cháu hiểu ý của ông," tôi nói. "Nhưng cháu sẽ không tại ngũ lâu đâu. Nếu có cơ hội vào trường đại học, cháu sẽ đi ứng tuyển. Nhưng bây giờ, tất cả các trường đại học đều đã đóng cửa. Cháu sẽ chỉ nhập ngũ trong vài năm thôi, và cháu sẽ vẫn còn trẻ khi xuất ngũ ạ."

Ông ngoại im lặng một lúc. Cuối cùng, ông nói: "Cháu à, nếu cháu muốn đi thì ông sẽ không cản cháu. Tuy nhiên, lần này, ông có khi không thể đứng dậy mà ra ngoài được. Sau khi cháu đi rồi, có khi ông cháu mình sẽ không gặp lại nhau được nữa." “Ông ơi! Cháu chắc chắn sẽ quay về mà!” Tôi kéo chăn qua đầu để ông không thấy nước mắt tôi đang trào ra, làm ướt gối và chăn.

Trong khi anh Vệ Hoa và tôi đang chờ thông báo cuối cùng, chúng tôi được biết rằng những tân binh sẽ được chia thành ba loại. Các ứng cử viên hàng đầu sẽ đến các căn cứ tên lửa hạt nhân, hạng hai – quân chủng hải quân và phần còn lại là binh chủng hậu cần. Chúng tôi thậm chí không nghĩ đến sẽ được đến một căn cứ tên lửa, vì ở nơi đó tiêu chuẩn chính trị quá khắt khe. Ban tuyển quân điều tra kỹ lưỡng lý lịch gia đình từ ba đời trở lại và loại bỏ những ai không qua được một câu thẩm vấn đơn giản. Thế là chúng tôi bắt đầu hy vọng được vào hải quân.

Đúng lúc này, mẹ chúng tôi trở thành mục tiêu của một chiến dịch mới, được thúc đẩy bởi chỉ thị của Mao Chủ tịch: "Loại bỏ cái cũ và lấy cái mới" trong hàng ngũ của Đảng. Bất kỳ kẻ nào theo chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xét lại, ngưu quỷ xà thần, phản cách mạng hoặc gián điệp, bằng cách nào đó vẫn giữ được tư cách Đảng viên, đều bị khai trừ ngay lập tức. Những Đảng viên không hoạt động tích cực đã bị "thuyết phục rút lui." Mẹ chúng tôi rơi vào loại không tích cực. Khẩu hiệu "Hãy khai trừ đứa con gái của tên Phúc, địa chủ thất thế ra khỏi Đảng!" xuất hiện ở sân Uỷ ban Cách mạng huyện.

Anh Vệ Hoa và tôi nghi ngờ rằng Ban chỉ huy quân sự huyện Linh Thọ đã bày trò ra những lời chỉ trích mẹ tôi, để hạ bệ bố và ngăn cản chúng tôi nhập ngũ. Chúng tôi quyết định đưa ra lời kêu gọi cá nhân tới ban tuyển quân, tận dụng mối quan hệ của bố, với tư cách là phó chủ tịch Ủy ban Cách mạng Quận. Chúng tôi mời các nhà tuyển quân đến nhà của chúng tôi, hy vọng rằng một khi họ nhìn thấy ngôi nhà tồi tàn của gia đình, họ sẽ nhận ra rằng bố là một vị quan chức tốt, và do đó các con trai của ông sẽ trở thành những người lính tốt. Cuối cùng, sĩ quan đại diện cho bên binh chủng hậu cần đã đồng ý nhận chúng tôi.

Ngay cả khi là những tân binh hạng ba, chúng tôi vẫn cảm thấy tuyệt vời khi Tết năm 1969 đến gần. Tôi đã làm lạp xưởng với thịt lợn tươi để chuẩn bị cho kỳ nghỉ Tết. Tôi cũng làm hai chiếc radio, một cho ông ngoại, cái còn lại cho Mỹ Hồ. Tôi không quên viết cho nó một bức thư mời nó đến Linh Thọ.

Thằng Mỹ Hồ đến vào đêm giao thừa. Nó đã đi xe đạp bằng một tay suốt quãng đường từ làng của mình. Nó có vẻ ghen tị khi tôi nói rằng mình sẽ nhập ngũ, vì vậy tôi không nhắc lại chuyện đó nữa. Tôi hỏi Mỹ Hồ về ngôi làng của nó, và được biết rằng vẫn không có gì thay đổi, và có lẽ nó sẽ sống như vậy cho đến hết đời. Vào bữa trưa, tôi nấu cho Mỹ Hồ một bát mì lớn và tặng nó chiếc radio của mình. Mỹ Hồ bật lên, xoay các nút xoay và vuốt ve chiếc vỏ gỗ bằng một tay. Vào buổi chiều, nó vác đài trong khi tôi tiễn nó và con ngựa sắt lên đỉnh đồi phía đông thị trấn. Chúng tôi cố định chiếc đài trên giá xe đạp, rồi lắp yên một cách vụng về và Mỹ Hồ lặng lẽ phóng đi, tay trái đặt trên ghi đông, ống tay áo bên phải vung vẩy trong không trung liên tục.

Mùng 8 âm lịch, anh Vệ Hoa và tôi đến tập trung lên đường tại nhà khách của huyện. Chúng tôi xếp hàng theo chiều cao trong sân, nơi những bó đồng phục mới tinh được gỡ ra và phân phát cho tân binh. Chúng tôi được dẫn đến nhà tắm công cộng, nơi chúng tôi nhảy xuống bể nước nóng lớn như bánh bao thả vào nồi hấp. Chúng tôi đã có một lần kiểm tra thể chất cuối cùng. Sau đó, chúng tôi mặc bộ đồng phục ka-ki mới, đó là đồng phục mùa đông, gồm khá nhiều lớp, tất cả đều bằng vải bông tốt nhất. Tôi chiêm ngưỡng mình trong một tấm gương lớn. Chưa bao giờ tôi có quần áo đẹp như vậy. Giờ đây, dù chưa có mũ bánh tiêu đính ngôi sao đỏ, tôi đã là một người lính thực thụ.

Tôi bắt gặp một vài cựu thành viên Hồng Kháng Quân ở Linh Thọ giữa đám đông tân binh và phụ huynh của họ trong sân nhà khách. Chúng tôi nhìn nhau và cười. Một sĩ quan kéo tôi lên bục như một con manequin, cho một đám nông dân say mê chiêm ngưỡng bộ quân phục của tôi. "Bà con hãy yên tâm," ông sĩ quan nói to, "các tân binh đây sẽ không chết rét đâu!"

Chúng tôi ở nhà khách tầm ba ngày, để học tập những câu danh ngôn của Mao Chủ tịch. Chiều cuối cùng, tôi được phép về nhà để từ biệt ông ngoại. Khi tôi bước đến gần giường sưởi trong bộ quân phục ka-ki, ông nhìn tôi qua cặp kính một lúc trước khi nói: "Trông cháu kìa, từ giờ cháu đã mọc cánh rồi! Bây giờ hai anh em cháu hãy bay thật xa nhé!" Khi ông nói, nước mắt chảy dài từ mắt ông, xuống bộ râu bạc lưa thưa.

“Ông ơi, đừng buồn,” tôi nói, nếm những giọt nước mắt mặn chát của chính mình. "Cháu sẽ viết thư về nhà. Cháu sẽ trở về nhà thăm ông."

Ông ngoại quay lưng lại với tôi và nằm nghiêng quay mặt vào tường, có thể thấy rõ đôi vai ông run run.

Sáng hôm sau, các tân binh diễu hành khắp thị trấn, trước sự hoan nghênh của bạn bè và gia đình đang xếp hàng trên đường phố. Những chiếc xe tải phủ bạt chờ chúng tôi dưới chân đồi ở phía đông thị trấn. Từ vị trí của mình ở phía sau một chiếc xe tải, tôi thấy mẹ và các em của tôi trong đám đông đang vẫy tay với tôi. Chỉ Hoa đang mặc bộ quần áo mà tôi đã bỏ đi ba ngày trước.

Chúng tôi lên một chuyến tàu hỏa chở quân vào tối hôm đó. Những cánh cửa toa tàu trượt đóng lại. Tiếng bánh xe thép va vào nhau chói tai khi đoàn tàu chở chúng tôi đi về phương bắc xa xôi.​
 
44. MỘT CUỘC CÁCH MẠNG MỚI

Vài giờ trước khi qua đời vì bệnh ung thư vào năm 1978, bố chúng tôi đã hát bài "Bài ca du kích núi Thái Hành" và yêu cầu chúng tôi rải tro cốt của ông trên những ngọn núi của huyện Linh Thọ. Sáu năm sau, người dân Linh Thọ đã dựng lên một tượng đài nhớ ơn nguyên huyện trưởng Cao Sơn Quế. Họ đặt một phiến đá cẩm thạch trắng, được lấy từ núi Thái Hành, trên đỉnh đồi nhìn ra cảnh tượng mà chính bố tôi đã thiết kế: những thửa ruộng bậc thang trồng ngô và cây ăn quả mọc kín thung lũng, xen kẽ với rừng thông trên đỉnh núi, phù hợp với dự án quy hoạch nông nghiệp của bố tôi: “đội mũ thông cho núi, mặc áo cây ăn quả, ruộng bậc thang làm giày”.

Sau khi bố mất, tôi vẫn chưa hiểu rõ hoàn toàn về ông. Nhưng tôi vẫn tiếp tục được nghe những câu chuyện về quá khứ của ông, để thấy được bố tôi đã can trường như thế nào, trước khi các phong trào chính trị liên tiếp dần dần làm ông suy sụp. Bố tôi đã phải đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng đầu tiên do sự cố chấp của mình mang lại vào năm 1952, là năm sinh của tôi. Ông là người đứng đầu huyện Thủy Nguyên, và lúc đó, chiến dịch Tam Diệt – diệt tham nhũng, diệt lãng phí và diệt quan liêu đang được tiến hành. Chính quyền tỉnh giao cho bố tôi chỉ tiêu năm "con hổ" - nghĩa là ông phải tìm được năm tên quan tham nhũng, mỗi tên đã biển thủ hơn 50.000 tệ. Bố tôi từ chối tuân thủ, nói rằng tổng ngân sách của nhà nước ở cái huyện nghèo nơi bố quản lý còn ít hơn một con hổ. Vì vậy, chính quyền tỉnh đã gọi bố tôi là "một con hổ lớn" và bỏ tù ông trong bốn tháng. Tôi đã không biết câu chuyện này cho đến tám năm sau khi ông qua đời.

Bố tôi làm việc ở Thạch Gia Trang trong ba năm cuối đời, với tư cách là giám đốc Sở lâm nghiệp của tỉnh. Trước đó, bố tôi vẫn ở vùng nông thôn. Ông đã rời Linh Thọ để làm việc tại một huyện thậm chí còn xa hơn, ở trong vùng núi sâu, sau khi anh Vệ Hoa và tôi nhập ngũ năm 1969. Chủ tịch Ủy ban Cách mạng tỉnh mới đã thuyên chuyển bố tôi như một sự trừng phạt vì sự thiếu nhiệt huyết của bố trong phong trào “bỏ cái cũ, nạp cái mới” trong hàng ngũ Đảng.

Ông ngoại thì không may mắn như bố tôi. Phần hồn của bố tôi đã tìm được nơi an nghỉ cuối cùng, nhưng ông ngoại vẫn còn lang thang khắp nơi. Hai tháng sau khi tôi và anh Vệ Hoa lên đường nhập ngũ, ông ngoại đã mất. Ông luôn khăng khăng rằng ông muốn về quê khi mất và nói rằng: “Lá rụng về cội”. Mẹ và Chỉ Hoa đã thuê một chiếc xe tải để đưa thi thể của ông đến phần mộ của tổ tiên ở Thủy Nguyên. Đến đoạn đường gần Bảo Định, nơi phe ủng hộ Tập đoàn quân 48 đang chiến đấu với những người ủng hộ Quân khu tỉnh, họ bắt gặp tiếng súng. Tài xế xe tải sợ không dám đi tiếp. Ông ngoại cuối cùng đã được chôn cất tại nghĩa trang gia đình họ Phúc ở gần Linh Thọ. Mẹ tôi nói dù sao đó cũng là họ Phúc. Chỉ Hoa khắc tên ông ngoại lên một viên gạch và chôn nó bên mộ. Nhiều năm sau, khi chúng tôi tìm kiếm ngôi mộ với hy vọng mang bộ hài cốt của ông về Thủy Nguyên, chúng tôi phát hiện ra nơi đó giờ đã trở thành khuôn viên nhà máy.

Anh Vệ Hoa trở thành một quân nhân chuyên nghiệp. Sau vài năm tuần tra dọc biên giới vùng Nội Mông, anh theo học tại một học viện quân đội và trở thành giáo viên ở đó. Tôi đã đi một con đường khác, thay đổi chức vụ nhiều lần. Tôi đã lái một chiếc xe tải quân đội trong hai năm, vận chuyển đá và xi măng để xây dựng các công sự ở ngoại ô Bắc Kinh, nhằm chuẩn bị cho cuộc chiến với Liên Xô. Khi các trường cao đẳng và đại học mở cửa trở lại để tuyển "sinh viên của các giai cấp công-nông-binh", tôi đã ứng tuyển vào một trường kỹ thuật. Cuối cùng, tôi đã trở thành một nhà báo. Anh Vệ Hoa kết hôn với một y tá và định cư ở Thạch GIa Trang. Tôi kết hôn với một người Mỹ khi đang học cao học ở Bắc Kinh và theo cô ấy sang Mỹ.

Những thay đổi xảy ra ở Trung Quốc trong những năm sau đó có lẽ ai cũng biết. Năm 1971, vị tướng quân “bất khả chiến bại" Lâm Bưu bị công khai tuyên bố là kẻ phản bội khi chết trong một vụ tai nạn máy bay ở Mông Cổ, sau khi âm mưu ám sát Mao Chủ tịch và tiếm quyền nhà nước của y thất bại. Lão Trần Bá Đạt, người đã tiêu diệt tổ chức Hồng Kháng Quân chỉ bằng một câu nhận xét ngẫu nhiên, đã bị bắt vì đồng lõa với âm mưu của Lâm Bưu.

Năm 1976, Thủ tướng Chu Ân Lai và Chủ tịch Mao cùng qua đời; thiên thạch rơi ở Cát Lâm và động đất ở Đường Sơn; và Tứ Nhân Bang bị bắt giữ. Băng đảng này bao gồm vị góa phụ của Mao Chủ tịch, Giang Thanh, người đã thu hút sự chú ý của chúng tôi từ buổi đầu trong Cách mạng Văn hóa vì câu nói "công văn, thủ võ ". Các thành viên khác là Diêu Văn Nguyên, người đã phê bình vở kịch lịch sử "Hải Thụy bãi quan", đã tạo tiền đề cho các cuộc chỉ trích Tam Gia Thôn, có lối viết cay độc mà giới học sinh sinh viên đã cố gắng bắt chước; Trương Xuân Kiều, một nhà báo tuyên truyền của Đảng ở Thượng Hải; và Vương Hồng Văn, trưởng ban an ninh nhà máy dệt đã trở nên nổi tiếng toàn quốc trong chiến dịch "Cơn bão tháng giêng" ở Thượng Hải, bằng cách lãnh đạo lực lượng công nhân nổi dậy tiếp quản chính quyền thành phố.

Đặng Tiểu Bình, người đã tái xuất vào năm 1973, sau khi bị thất sủng một thời gian và tiếp tục làm phó thủ tướng, rồi lại bị cách chức vào năm 1976, rồi chiếm lấy quyền lực vào năm 1977. Kẻ theo con đường tư bản vĩ đại, Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ được phục hồi danh dự vào năm 1980. Năm 1981, Đảng chính thức tuyên bố Cách mạng Văn hóa là một thảm họa. Chân lý của câu tục ngữ bao đời, "Cứng quá thì gãy", một lần nữa đã được chứng minh.

Khi tôi rời Trung Quốc vào năm 1982, một cuộc cách mạng khác đang lan rộng khắp vùng nông thôn, cuộc cách mạng của doanh nghiệp tư nhân. Khi tôi trở lại vào năm 1984, nó cũng đã lan đến vùng đô thị. Mẹ và các anh chị em của tôi vẫn đang sống theo lối bao cấp của chủ nghĩa xã hội ở Thạch Gia Trang, nhưng Chỉ Hoa đã nghĩ đến việc thoát khỏi lối sống bao cấp của mình để khởi nghiệp về một studio chuyên chụp ảnh.

Ở Chính Định, ai ai cũng nói về việc xây dựng lại bức tường thành và biến thị trấn thành một điểm thu hút khách du lịch với những con đường lối cố trang, dựng theo triều đại Đường, Tống và Minh. Tái tạo và xây mới đã được tiến hành ở khắp mọi nơi.
Hai trong số bốn ngôi chùa đổ nát đang được xây dựng lại. Bốn tượng Tứ Thiên vương của Đền Đại Phổ đã xuất hiện trở lại, đẹp hơn một cách kỳ lạ. Quảng trường nơi chúng tôi đã tham dự các cuộc họp đấu tố chống lại những người theo chủ nghĩa tư bản, giờ là một khu thương mại tự do khổng lồ. Mặc dù người ta thỉnh thoảng bắt gặp một số khẩu hiệu đã lỗi thời vẫn sót lại từ Cách mạng Văn hóa, nhưng bị chìm nghỉm trước một khẩu hiệu mới: "Thời gian là tiền bạc, hiệu quả là lối sống, người tài là vốn và tri thức là sức mạnh!" Những người trẻ tuổi đi bộ dọc thị trấn trong chiếc quần bò xanh bó sát và giày cao gót không phải là cảnh tượng hiếm thấy. Thay vì các đại tự báo, các tấm biển quảng cáo về các lớp học nhảy đã được dán trên đường phố.

Ngôi trường của chúng tôi, dù bị đóng cửa trong một thập kỷ, đã được hồi sinh và cái tên thời Cách mạng Văn hóa của nó, trường Trung học Hồng Đông, đã hoàn toàn bị lãng quên. Bức tượng Mao Chủ tịch bên trong cổng đã biến mất, thay vào đó là một hòn non bộ và đài phun nước. Xưởng mộc nơi mà thầy Lý và những giáo viên khác từng sử dụng để cắt những phiến đá cẩm thạch để làm nền bức tượng Chủ tịch Mao, bây giờ là một cửa hàng tổng hợp do các giáo viên mở ra để kiếm thêm tiền.

Thầy Lý đã qua đời. Các thầy Lý, thầy Thẩm và thầy hiệu phó Lâm Thịnh đã được phục hồi danh dự sau khi mất. Những vị “ngưu quỷ xà thần” xưa kia bây giờ đã đi khắp tỉnh. Người giáo viên chủ nhiệm của tôi, cô Văn Tú, đã chuyển đến một trường điểm của Thạch Gia Trang. Thầy Lưu đã từ bỏ việc dạy địa lý để trở thành chủ tịch Hội Hiệp thương Chính trị ở một huyện lân cận. Thầy Phong và vợ đã trở về Thiên Tân. Cô Quách Bái đã lên Bắc Kinh. Còn ông Bí thư Đảng ủy, Đinh Di, đã nghỉ hưu và giờ phải ngồi xe lăn.

Tôi rất muốn tìm một số đồng đội xưa của mình, nhưng tôi lại gặp phải kẻ thù xưa trước tiên. Tôi đã không nói chuyện với bất kì ai từ phe địch được mười sáu năm. Khi tôi nhìn thấy Tào Lan trên đường, tôi đã ngạc nhiên khi gọi tên cô ấy. Cô lớp trường ngày nào mời tôi về nhà ăn tối. Giờ cô đã là bà mẹ hai con và làm quản lý cấp trung trong một nhà máy sản xuất máy kéo. Chồng của cô ấy, một người bạn học cũ đã bí mật gửi cho chúng tôi thông tin về phòng tra tấn của Bá Vương, đã trở thành một bác sĩ quân y. Chúng tôi không nói về Cách mạng Văn hóa nữa, mà nói về cuộc sống của chúng tôi kể từ đó. Tào Lan nhất quyết bắt tôi ở lại qua đêm, hơn nữa còn bắt tôi ngủ ở phòng ngủ chính, trong khi vợ chồng cô ấy cùng hai đứa con vào một phòng khác để ngủ. Cô ấy cứ nằng nặc đòi chuyển cái quạt điện vào phòng tôi.

Người đồng đội duy nhất còn sống sót của tôi trong số các bạn cùng lớp của tôi, Nhị Xú, đang làm việc trong một cửa hàng hợp tác xã ở thị trấn của anh ấy và canh tác trên mảnh đất nông nghiệp được giao khoán cho anh, theo chỉ tiêu của từng hộ gia đình. Chúng tôi đã dành cả ngày để nói chuyện, uống bia và ăn dưa hấu trong khi đứa con trai mười tuổi của anh ấy ngồi ở chợ bán đống dưa hấu mà họ đã chở vào thị trấn bằng chiếc máy kéo mới của họ.

Tôi được nghe thêm rằng Vưu Linh đã kết hôn với một sĩ quan quân đội và đang dạy tiếng Anh tại một trường cấp hai ở Tân Cương. Bố mẹ của cô đã được phục hồi danh dự và quay trở lại công việc trước đây của họ.

Bá Vương đã đi làm trong một công ty vận tải sau khi xuất ngũ. Nhưng do kết quả của một cuộc điều tra về cái chết của Tôn Vệ được tiến hành, như một phần của chiến dịch loại bỏ "ba loại người kia" - những ai theo Tứ nhân bang, những kẻ kết bè kết phái cực đoan và những kẻ tham gia đánh đập, đập phá và cướp bóc trong Cách mạng Văn hóa, hắn đã bị khai trừ khỏi Đảng và bị kết án hai năm quản chế.

Song Căn đã học cao đẳng và đang làm việc tại một viện nghiên cứu thức ăn gia súc. Vì dính líu đến cái chết của Tôn Vệ, hắn cũng đã bị khai trừ khỏi Đảng.

Mỹ Hồ trở thành một giáo viên tiểu học trong làng của mình. Qua nhiều năm, anh ấy đã học được cách làm mọi việc bằng một tay bên trái, ngay cả những việc người thường làm việc bằng hai tay.

Hướng Vân đã kết hôn với một Hoa kiều và cùng chồng xuất ngoại để theo đuổi cuộc sống tốt đẹp hơn.

Bát Giới đã học quản trị kinh doanh ở đại học, nhận được một công việc tại Cục Thống kê tỉnh và giành được trái tim của người con gái của cục trưởng, một cuộc hôn nhân chắc chắn sẽ giúp thanh niên này thăng tiến trong sự nghiệp. Hắn dự kiến được thăng chức lên đến phó giám đốc của văn phòng, cho đến khi người ta phát hiện hắn có dính líu đến cái chết của Tôn Vệ. Hắn cũng đã bị khai trừ khỏi Đảng và bị giáng xuống làm nhân viên văn phòng bình thường.

Hầu hết các người bạn cùng lớp khác của tôi ở phe địch đều làm nắm giữ các công việc ổn định, ngoại trừ một người chết vì tai nạn, một người khác chết vì bệnh tật, và người thứ ba đã phát điên và tự thiêu trong khi la hét, “Tôi muốn vào đại học!"

Đối với các thủ lĩnh của hai phe Hồng vệ binh của trường, Chỉ huy Quân đoàn Hồng Đông, anh Phương Bảo đã mất hết quyền lực, trong khi Chỉ huy Hồng Kháng Quân, anh Mạnh Triết, đã trở thành một doanh nhân thành đạt.

Anh Phương Bảo lần lượt bị tước bỏ các chức danh cấp cao, cho đến khi anh chỉ còn là chủ nhiệm ban Tuyên giáo của huyện. Sau đó, anh bị liệt vào một trong "ba loại người kia", bị tước luôn chức vụ còn lại và bị khai trừ khỏi Đảng. Giờ anh đang làm nhân viên bán hàng cho một công ty thương mại của nhà nước.

Anh Mạnh Triết đang trên con đường trở thành một "tư bản đỏ", một trong những triệu phú tự phất lên đầu tiên của Trung Quốc Đại lục. Sau khi được ra tù sớm, anh đã trở về làng làm ruộng vài năm. Sau đó, anh đã bắt đầu một dịch vụ sửa chữa tivi và radio. Tầm nhìn và sự kiên nhẫn của anh Mạnh thật hoàn hảo; lúc đó Đảng chỉ mới bắt đầu khuyến khích tinh thần khởi nghiệp, và tivi với radio đang dần xuất hiện nhanh chóng ở các làng. Bước tiếp theo của anh là thành lập một trường dạy nghề chuyên đào tạo thợ sửa tivi, thu hút những sinh viên bị bỏ rơi từ khắp nơi trên đất nước. Trong vòng vài năm, anh đã có thu nhập chừng sáu con số. Sau hơn một thập kỷ sống trong ô nhục, giờ đây anh Mạnh đã trở thành chủ đề bàn tán của thị trấn.

Người ta nói rằng một điểm khác biệt giữa nông dân và một thương gia có thể thấy cách họ đối xử với tiền bạc: người nông dân sẽ chôn tiền của mình xuống đất, trong khi thương gia sử dụng tiền của mình để kiếm nhiều tiền hơn. Anh Mạnh Triết sử dụng thu nhập của mình vào mục đích thành lập một doanh nghiệp đa ngành, mà anh đặt tên là Tập đoàn Công nghiệp Tiến Lực. Anh là chủ tịch, và ban giám đốc của anh bao gồm một số nhà tư bản già có kinh nghiệm và một quan chức chính quyền cấp tỉnh mới về hưu. Khi tôi đến thăm cựu thủ lĩnh của tôi trong ngôi nhà có mười phòng mới xây của anh, anh Mạnh Triết đang cân nhắc xem có nên mua một nhà máy quốc doanh đã phá sản hay không.

Anh Mạnh Triết nói rằng không có gì nằm ngoài sự tính toán của anh ấy, doanh nghiệp của anh sẽ giải quyết mọi thứ, từ nhập khẩu và xuất khẩu, sang sản xuất đồ hộp, hóa chất và may mặc. Anh thậm chí đã chi rất nhiều tiền cho quảng cáo, lôi kéo các kỹ thuật viên với mức lương cao, tuyển dụng các chuyên gia cố vấn và thậm chí còn gặp gỡ chủ tịch UBND tỉnh để thảo luận về việc liên doanh với nước ngoài tại thành phố cảng Tần Hoàng Đảo.

Có tố chất của một doanh nhân, anh Mạnh Triết có sức thu hút và phong thái dễ gần, vốn đã giành được lòng trung thành của mọi người trong Hồng Kháng Quân. Tôi nói với anh rằng nếu anh từng phát triển Công xã Lỗ Tấn chỉ có chín thành viên, lên thành Tổ chức Hồng Kháng Quân gồm bảy trăm người, thì anh Mạnh nhất định sẽ điều hành tốt doanh nghiệp của mình. Anh chỉ cười và nói rằng anh chắc chắn đã thất bại từ hồi đấu tranh phe phái lúc đó, vì anh không kiểm soát được tình hình chính trị, nhưng giờ đây anh Mạnh đã nắm quyền chỉ huy vững chắc. Tôi hỏi anh rằng anh sẽ làm gì nếu chính sách hiện tại thay đổi. "Hãy quay lại vạn bước và chấp nhận rằng đã có một sự thay đổi như vậy thôi," anh trả lời. "Nhưng khi mà nhà nước nghĩ về một sự thay đổi như vậy, doanh nghiệp của anh đã có hàng nghìn nhân viên. Chú nghĩ ai sẽ nuôi họ nếu doanh nghiệp bị giải thể?"

Anh Mạnh Triết coi những cải cách kinh tế là sự tiếp nối những nỗ lực của Trung Quốc nhằm tìm ra con đường phù hợp nhất cho tương lai. Anh nghĩ đến những cải cách Khai phóng này, giống như Cách mạng Văn hóa, thể hiện một cuộc đấu tranh nhằm định hình lại suy nghĩ của mọi người, rũ bỏ những tư tưởng bảo thủ lỗi thời và chuyển sang chương mới. Mặc dù cuộc cách mạng mới này tuy không có sự cuồng nhiệt như hồi Cách mạng Văn hóa, nhưng nó đã chạm đến tâm hồn con người sâu sắc hơn nhiều và sẽ có tác động lớn hơn đến sự phát triển của xã hội sau này.

Khi tôi rời khỏi nhà anh Mạnh Triết, anh nói với tôi rằng nếu tôi muốn thành lập một tờ báo tư nhân ở Trung Quốc, anh sẽ hết mực góp phần đầu tư. "Hãy quay lại sớm đi, không chú sẽ bị bỏ lại phía sau đấy!" là câu từ biệt của anh.

-HẾT-​
 
Sửa lần cuối:
Top