Có Hình Phận Hồng Vệ Binh - Thân phận con người Trung Quốc trong Cách mạng Văn Hóa Vô sản

Phận Hồng Vệ Binh (Born Red – tác giả Cao Nguyên – 1987 - NXB Đại học Stanford)



Lời bình (1)

Câu chuyện của Cao Nguyên dẫn chúng ta đến những năm đầu của Đại cách mạng văn hóa Vô sản của Trung Hoa. Có thể so sánh với nhật ký của Anne Frank, về những khoảnh khắc đậm tính nhân văn trong một thế giới không có tình người. Trải nghiệm không bao giờ quên được của Cao, với vai trò là một Hồng Vệ Binh (HVB) trong Cách mạng Văn hóa (CMVH) dẫn chúng ta theo một vòng xoáy chính biến, hàng triệu thanh niên trở thành những sứ giả của sự bất ổn. Qua con mắt của Cao, chúng ta sẽ thấy những mưu đồ chính trị, lợi dụng lý tưởng cao đẹp ban đầu, để rồi xâu xé lẫn nhau, suýt đưa nước Cộng hòa Nhân dân vào một cuộc nội chiến mới, một cơn thịnh nộ mà không chuyên gia phân tích nào có thể lý giải được.

Khởi nguồn của CMVH có thể được coi là bắt đầu khi Mao Trạch Đông nhận ra là CHND Trung Hoa vào giữa những năm 1960 đang chệch hướng khỏi con đường XHCN. Mao đã luôn là lãnh tụ tối cao từ khởi đầu cuộc nội chiến hồi những năm 1930, và là người vạch đường lối cho giai cấp nông dân vô sản đấu tranh dành quyền lực. Sau khi giành quyền lực, Mao không chỉ là chủ tịch nước, mà còn coi bản thân là người bảo vệ những tư tưởng, lý luận mà cuộc cách mạng đem lại.

Một cuộc khảo sát vào giữa những năm 1960 do Mao chỉ đạo, đã đem lại một kết quả không vừa ý. Đời sống văn hóa nhân dân còn phụ thuộc vào truyền thống và không theo cách mạng. Giáo dục cho tầng lớp trí thức được coi trọng hơn tầng lớp công nông. Nội bộ Đảng tham nhũng và ích kỷ. Những chương trình phúc lợi mang lại nhiều lợi ích cho thành thị hơn nông thôn, trong khi vùng nông thôn được coi là cái nôi của cách mạng Trung Quốc. Nếu làm ngơ các điều trên, Mao sợ rằng chủ nghĩa tư bản sẽ một lúc nào đó lén lút, âm thầm trở lại, và cuộc đấu tranh công nông trở nên vô nghĩa.

Gia đình của Cao trở thành một trong những mục tiêu đầu tiên của CMVH. Bố của Cao, một lão thành cách mạng bị HVB tấn công và sỉ nhục tàn tệ khi mà cuộc CMVH bắt đầu. Ông bị phán tội để ý thái quá đến kinh tế gia đình mà bỏ quên đấu tranh giai cấp, bỏ quên nhiệm vụ của một quan chức nhà nước.

Trong lúc CMVH diễn ra, Mao thường xuyên tuyên bố rằng: “Không thể xây mới mà không đập bỏ cái cũ”, và nó trở thành kim chỉ nam cho sự hủy hoại văn hóa của Trung Hoa, và là sự buộc tội cho vô số nạn nhân. Mỉa mai thay, CMVH chỉ đập cái cũ khá nhiều, nhưng không xây mới thêm được chút nào. Một cuộc cách mạng được xây dựng bởi bạo lực và tính thù địch, thật sự đi chệch với ý tưởng và hy vọng chống lại chủ nghĩa xét lại của Mao.​




Lời nói đầu của Cao Nguyên

Một trong những thiệt hại mà CMVH đã đem lại cho tôi chính là quyển nhật ký của mình. Trong một cuộc ẩu đả tại trường trung học của tôi, giữa lúc hỗn loạn đó, nó đã không cánh mà bay. Nên cũng có thể nói rằng những gì tôi cảm thấy, nhìn thấy, nghe thấy và nghĩ đến thời đại đó đã là dĩ vãng.

Những dòng dưới đây xin cam đoan là thật, và mỗi khi tôi nhớ lại chúng, cảm giác như mới ngày hôm qua, ngoại trừ những lời đối đáp, và tên của những người trong câu chuyện của tôi đều được đã được đổi tên khác. Với tên của mình, sau CMVH, tôi đã đổi tên từ Cao Kiến Hoa sang Cao Nguyên, âu cũng là có chút đặc biệt, vì tôi sinh ra ở cao nguyên tỉnh Hà Bắc.

Tôi xin gửi lời cám ơn và xin lỗi chân thành nhất đến những kiếp người đã trải qua cuộc CMVH, học sinh, thầy cô, giáo viên, công chức và gia đình mình.​

(Còn Tiếp)

Phần 1
Phần 2
Phần 3
Phần 4
Phần 5
Phần 6
Phần 7
Phần 8
Phần 9
 
Sửa lần cuối:
10. DỌN DẸP NỘI BỘ

Còn nhiều công việc phía trước. Và trong đó, chúng tôi không thể là những người cách mạng chân chính được, trừ khi tự giác xóa bỏ Bốn cái cũ trong hàng ngũ của chính mình. Một số Hồng vệ binh người Hồi đã can đảm ăn thịt lợn. Một đứa nhỏ đã trình diễn trước mọi người trong nhà ăn. "Thưa các đồng chí," nó tuyên bố, "truyền thống người Hồi chúng tôi không được phép ăn thịt lợn. Điều đó thật là vô nghĩa! Chúng ta phải quán triệt quét sạch những hủ tục như vậy! Bây giờ hãy xem tôi ăn miếng thịt lợn này. Nó ngon, ngon hẳn hơn nhiều so với thịt cừu hoặc thịt bò!"

Mái tóc dài cũng là một cái “cũ”. Những nữ Hồng vệ binh cắt bỏ tóc tết, bắt chước phụ nữ trong vùng căn cứ Сộng sản những năm 1930, với kiểu tóc bồng lên. Tào Lan và Tùng Phương đã nhờ Nhị Xú, thợ cắt tóc giỏi nhất của lớp, để cắt tóc ngắn bằng cánh con trai. “Các bậc ông cha cách mạng của chúng ta đã hy sinh bản thân cho cách mạng, nên tại sao chúng ta lại không nên hy sinh mái tóc của mình?" Tào Lan nói vậy.

Cánh con gái không chỉ dừng lại ở đầu tóc. Bọn họ thành lập một trạm kiểm soát tại cửa Bắc thị trấn, một lối mở đi thông qua bức tường thành, nối từ thị trấn đến ga xe lửa, để bắt bất kỳ phụ nữ nào có mái tóc dài thì sẽ phải cắt đi thì mới được đi qua. Họ cũng kiểm tra chặt chẽ với quần dài. Nếu không đủ rộng để vượt qua bài kiểm tra là đút một chai bia chui lọt từ thắt lưng xuống ống, bọn họ sẽ rạch nột đường dọc ống quần lên đến đùi. Với bất cứ ai quá cứng đầu và chống đối, cánh con gái giải thích hành động của họ bằng việc đọc trích dẫn dòng đầu tiên của Nghị quyết Mười sáu điểm:

"Cuộc Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản đương thời, là một cuộc cách mạng vĩ đại chạm đến tận tâm hồn con người." Một điều khác khiến chúng tôi để tâm là tên riêng của chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều được nghe câu chuyện về nữ sinh trường trung học Thanh Hoa, nằm trong số những học sinh được vinh dự gặp gỡ Mao Chủ tịch. Khi nghe tên khai sinh của bạn ấy là Bình Bình", Chủ tịch Mao đã nói với bạn ấy: "Cháu nên là một chiến binh cách mạng!" Sau đó, bạn ấy đã đổi tên thành Ái Cách luôn.

Một số đứa cùng lớp của tôi đề xuất rằng tất cả mọi người trong lớp 85 đều nên đổi sang họ Mao, vì Mao Chủ tịch là vị lãnh tụ vĩ đại của chúng tôi, và tất cả chúng tôi đều là con của Chủ tịch. Những đứa khác thì nghĩ đến họ Vô, để mang tính "giai cấp vô sản", nhưng chúng tôi đã bỏ ý tưởng đó sau khi có đứa chỉ ra rằng nó cũng có thể mang nghĩa "không" theo tính xấu. Thậm chí, có đứa khác đề xuất chuyển họ Đảng, có nghĩa là "Đảng" của cụm từ Đảng Сộng sản. Có ý kiến cho rằng chúng tôi nên sử dụng các con số cho các tên riêng – Nhất Nguyên, Nhị Nguyên, v.v. Nhưng cái bất tiện là dùng các con số quá khó hiểu, nên việc sử dụng những cái tên mỹ miều như Đảng Hướng Nhật, Đảng Hồng Tâm, Đảng Tận Trung, v.v. được đa số ủng hộ.

Tranh cãi mãi chẳng đi đến đâu, chúng tôi quyết định rằng mọi người có thể chọn bất kỳ tên nào ưa thích, hoặc giữ nguyên tên cũ nếu nó không mang tính xấu. Hầu như tất cả chúng tôi đã chọn tên cách mạng mới. Bao gồm Bảo Đông Bưu, hàm ý "Hãy bảo vệ Mao Trạch Đông và Lâm Bưu", Trọng Mao, "tôn kính Chủ tịch Mao"; Hướng Đông; Kế Hồng, nghĩa là "thừa kế màu đỏ cách mạng"; Trung Cách, "mãi mãi trung thành với cách mạng"; Phản Tu, có ý "chống chủ nghĩa xét lại"; và Phá Tư, “phá bỏ giai cấp tư sản”….

Tam Hỷ muốn thêm một hạnh phúc thứ tư vào tên của mình. “Bố mẹ tao có ba cái hỷ, là Giải phóng, Cải cách Ruộng đất, và chính tao," nó nói với tôi. "Hiện tại tao tìm được cái hỷ thứ tư, chính là cuộc Cách mạng Văn hóa này, với vai trò củng cố chế độ chuyên chính của giai cấp vô sản." Vì vậy, nó đổi tên thành Tứ Hỷ. Tôi lấy tên mới của mình từ bài thơ "Bơi lội" của Mao Chủ tịch và tự gọi mình là Thiên Biến Hóa, nghĩa là "những sự thay đổi lớn lao trong thiên hạ." Nhưng rốt cuộc mọi sự cố gắng đổi tên đều vô ích, những cái tên mới thật là khó nhớ, nên danh tính mới của chúng tôi chỉ tồn tại trong vài ngày.

Chúng tôi nghĩ rằng mình đã thanh lọc gần như tất cả Bốn cái cũ trong hàng ngũ, cho khi một tấm áp phích xuất hiện ở cổng phía nam, lối vào chính của trường, kêu gọi sự chú ý đến một điều mà chúng tôi có lẽ đã bỏ lỡ. Nó truyền tải thông điệp tới "Các đồng chí Hồng Vệ Binh của trường trung học Chính Định" rằng:

“Các bạn đã làm rất tốt việc đập bỏ Bốn cái cũ bên ngoài trường học của mình, và chúng tôi xin nhiệt liệt hoan nghênh. Tuy nhiên, các bạn đã bỏ qua Bốn cái cũ ngay sát sườn các bạn. Cái cổng đá cẩm thạch kiểu phương Tây này, đại diện cho sự xâm lược về văn hóa của chủ nghĩa đế quốc, nên rõ ràng thuộc về Bốn cái cũ. Chúng tôi tin tưởng rằng, các bạn sẽ hành động ngay lập tức để dọn dẹp nội bộ. Nếu việc phá hủy cổng không được hoàn thành trong vòng ba ngày, chúng tôi, những Hồng vệ binh của trường trung học Nhất Chính ở phường bên cạnh, sẽ đến góp sức cho các bạn. Nhân danh Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản!”

Chủ tịch Đặng ngay sau đó đã lập tức triệu tập một cuộc họp của Ủy ban Tiến hành, nhất trí thông qua nghị quyết về việc dỡ bỏ mái vòm cổng nam. Tất cả mọi người trong khuôn viên trường, ngay cả những phần tử xấu đã bị cô lập trong phòng để viết bản tự kiểm điểm, đều bước ra chứng kiến sự kiện lịch sử. Thầy Chu, giáo viên tiếng Hán với tội hữu khuynh, đi đến với một cái cuốc trên tay, leo lên tận đỉnh mái vòm cổng từ một bức tường liền kề, và bắt đầu đập vào mái vòm.

"Xuống đây đi, lão Chu kia!" Anh Phương Bảo thét lớn. "Ai cho phép ông lên đó?"

Thầy Chu ngượng ngùng nói xuống. "Làm gì có ai, thầy chỉ muốn đóng góp chút gì đó cho chiến dịch quét sạch Bốn cái cũ thôi mà."

"Chỉ những người thuộc phe cách mạng mới có thể tham gia vào việc này!" Anh Phương Bảo nói. "Ông mà cũng coi mình là một người cách mạng á? Không, ông chỉ là một kẻ cực đoan hữu khuynh thôi! Ông nên quay lại và viết tiếp bản tự kiểm điểm của mình mau!"

Thầy Chu bèn leo xuống, vất cái cuốc và bỏ đi. Rồi vụ việc đã được một nhóm học sinh muốn bảo vệ cánh cổng xử lý. Trích theo câu nói của Mao Chủ tịch "Bất cứ điều gì kẻ thù của chúng ta ủng hộ, chúng ta phải phản đối, và bất cứ điều gì chúng phản đối, chúng ta phải ủng hộ", bọn họ lập luận rằng nếu đập vỡ cánh cổng làm hài lòng một kẻ hữu khuynh như thầy Chu, ta không nên đập bỏ cánh cổng. Chủ tịch Đặng gọi vội họp Ủy ban Tiến hành tại chỗ. Ủy ban sau đó đã đưa ra một biện pháp: các mái vòm ở trên sẽ bị kéo sập, nhưng các cột trụ ở phía dưới vẫn để nguyên. Trong vòng vài giờ sau, các mái vòm đã sụp đổ. Sáu cột trụ vẫn còn, cùng với những tấm lưới thép có gai nhọn hình sao đỏ trên đỉnh.

Ủy ban Tiến hành Cách mạng tiếp tục họp để xác định xem còn Bốn cái cũ nào khác trong trường không. Từng lớp học được đảm nhận các nhiệm vụ khác nhau. Lớp chúng tôi nhận nhiệm vụ tháo dỡ cái tháp chuông cổ của trường. Tất nhiên, chỉ có Hồng vệ binh được phép tham gia. Không ai có thể chối cãi rằng tháp chuông đã có từ lâu đời. Nó đã đứng đó được gần nghìn năm, có lẽ là từ thời nhà Tống. Đó là một công trình kiến trúc phức tạp, với hàng hiên bằng những miếng ngói hình vuông vững chắc làm đế, trên cùng là bằng một tháp xây tròn bằng gạch và gỗ. Công trình này phỏng theo quan điểm thần thoại truyền thống, rằng trời tròn và đất vuông. Chiếc chuông đồng cổ lớn được treo trên một thanh xà ngang vững chắc bên trong.

Chúng tôi bắt đầu từ trên đỉnh, trước tiên leo lên mái bằng một cái thang đứng, rồi cạy từng viên gạch xám ra và ném chúng xuống, để rồi những mảnh gạch vụn vương vãi khắp sân. Vưu Linh, đã trở lại trường học sau vài ngày ở với bà nội, đứng bên dưới cùng với những học sinh không phải là Hồng vệ binh. Trong khi những người khác cổ vũ chúng tôi, nhỏ chỉ đứng nhìn với một vẻ mặt buồn bã hiện lên trên khuôn mặt. Lúc đó tôi thấy Vưu Linh im lặng như một bức tượng.

Khi các xà nhà của tháp chuông lộ ra, chúng tôi phát hiện một số tổ chim sẻ ẩn dưới mái hiên. Chúng tôi tạm dừng công việc của mình để lấy tổ trứng và con non của chúng. Sau đó, cả bọn phá bỏ các xà nhà đang treo chiếc chuông lớn. Những thanh xà kêu cót két và nứt dần, khi chúng tôi xoay sở để tháo những đoạn dây thừng buộc chuông. Cuối cùng, cái chuông rơi xuống, va đập vào nền gạch ở dưới và vỡ thành nhiều mảnh.

Chúng tôi mất gần cả ngày để làm nhiệm vụ này. Tối đến, tuy cảm thấy mệt mỏi nhưng vui vì đã hoàn thành, chúng tôi bọc chim sẻ non trong đất sét và nướng lên bằng lửa trại. Khi chín, những chiếc lông vũ mảnh mai bị lột ra theo lớp vỏ đất sét. Chúng tôi cùng thưởng thức món chim non ăn mày, đó có lẽ phần thưởng tốt nhất cho nhiệm vụ mang ý nghĩa lớn này.​
 
Sửa lần cuối:
11. CÙNG NHAU THU DỌN, GIỮA PHẢN VÀ TRUNG

Vưu Linh một lần nữa tìm đến sự giúp đỡ của tôi. Những hàng xóm nơi nhỏ sống báo tin rằng, các Hồng vệ binh từ trường học gần đó đã đến nhà nhỏ nhằm phá bỏ Bốn cái cũ. Tôi lập tức đồng ý đi cùng Vưu Linh về nhà để giúp bà nội nhỏ dọn dẹp đống lộn xộn còn sót lại. Trước đó tôi từng đến nhà nhỏ vài lần, và bà nội nhỏ với lòng hiếu khách, luôn mời tôi ăn quà vặt.

Chúng tôi đi đường tắt tới thị trấn, dọc theo con đường xuyên qua bãi đầm cỏ lau. Trên đường đi, tôi đã tháo chiếc băng Hồng Vệ Binh của mình, vì không muốn bà ấy hoảng sợ. Tôi cũng muốn Vưu Linh biết rằng hai tôi vẫn là đồng minh. Tôi nói với cô ấy rằng tôi vẫn còn giận bọn bạn trong lớp vì đã từ chối nhỏ trở thành Hồng vệ binh. Vưu Linh ném về tôi một cái nhìn buồn bã. “Số phận đã thế rồi,” nhỏ nói. "Bà tớ thường nói về số phận, và tớ hay nói với bà nội rằng đó chỉ là mê tín dị đoan thôi. Nhưng bây giờ tớ bắt đầu tin rằng, mình đâu thể thay đổi số phận của bản thân được.”

Dần dà những cảm xúc bị dồn nén của nhỏ tuôn ra. "Có lúc tớ hận bố mẹ mình vì lý lịch không được trong sạch. Tớ ghét bố mẹ vì hai người được giáo dục trong xã hội cũ. Tớ ghét bố mẹ vì họ đã gây ra quá nhiều rắc rối cho tớ, nên tớ không thể tham gia Hồng vệ binh. Những lúc khác, tớ không bao giờ nghĩ xấu về bố mẹ với bất cứ điều gì. Họ là những phụ huynh tốt, và họ luôn làm việc chăm chỉ cống hiến cho Tổ quốc. Từ lớp 1 ở trường tiểu học, tớ đã luôn là tổ trưởng Đội Thiếu niên Tiền phong. Các giáo viên và bạn bè trong lớp ưa thích tớ. Bây giờ mọi người đối xử với tớ như thể tội phạm. Ngay cả cậu nữa, Kiến Hoa à. Cậu đã hoàn toàn bỏ rơi tớ trong suốt tuần vừa rồi. Cậu có lẽ chỉ quan tâm đến việc phá hủy Bốn cái cũ thôi nhỉ? Hay cậu đang nghĩ rằng việc nói chuyện với tớ sẽ gây hại cho tương lai của cậu?"

Quả thật là tôi đã không nói một lời nào với Vưu Linh, từ lúc nhỏ bám theo đoàn Hồng vệ binh tuần hành quanh thị trấn. Một lần nữa, tôi cảm thấy có lỗi với thân phận Hồng vệ binh của mình, trong khi nhỏ thì không. tôi cúi gằm xuống đất khi chúng tôi lê bước dọc theo con đường về nhà nhỏ. Dần dà, hai người chúng tôi đã đến ngôi nhà của nhỏ trong một sự im lặng.

Nhà của Vưu Linh tọa lạc ở phố Dân Chủ. Một cặp lân sư đá ngồi chực hai bên đôi cửa gỗ chính, được chạm khắc tinh xảo. Khi nhỏ mở cửa, tôi có thể thấy rằng đôi lân sư không thể bảo vệ ngôi nhà trước Hồng Vệ Binh. Khung cảnh trông như một cơn bão lơn đã quét qua sân. Sách vở nhạc lý và y khoa, biểu đồ giải phẫu và châm cứu cơ thể người vương vãi khắp nơi. Một cặp bình sứ lớn nằm vỡ vụn bên dưới một giàn nho.

Chúng tôi bước vào nhà, một ngôi nhà kiểu truyền thống, với mái lợp ngói và lưới mắt cáo trên cửa sổ và cửa ra vào các phòng. Bà của Vưu Linh ngồi trên ghế trường kỷ, vẻ mặt như vô hồn dưới mái tóc bạc trắng. Mái tóc già nua được búi cao hồi nào đã bị cắt phăng.

"Bà nội ơi, Kiến Hoa tới giúp chúng ta dọn dẹp!" Vưu Linh nói, giọng nhỏ đột nhiên phấn chấn hẳn.

Bà lão chợt rùng mình nhẹ, như khỏi trạng thái bị thôi miên. "Cháu đã về đấy à?", bà nói. "Bà đang nghĩ làm sao để dọn dẹp đống bừa này, mà có cần thiết không nhỉ?”

"Tất nhiên là cần thiết rồi bà!" Vưu Linh trả lời. “Không phải mỗi nhà mình bị lâm cảnh này đâu ạ. Nhiều nhà người khác cũng đã bị lục soát. Đây là lẽ thường, nên bà cháu mình nên dọn sạch lại và tiếp tục sống." Giọng nhỏ thật lạc quan, giống như trước đây, nhưng tôi biết nhỏ đang che đậy sự bi quan của mình vì bà nội.

Tôi đưa mắt nhìn ra xung quanh. Một chiếc đàn piano được dựng trong phòng khách, với bàn phím và nắp che bộ dây đã bị đập vỡ, còn dây đàn thì bung ra tứ phía. Một chiếc máy hát đổ nghiêng trên sàn nhà, xung quanh nó là những mảnh đĩa hát bị đập nát. Chậu hoa, lư hương, bình hoa và tranh ảnh bằng kính gãy vụn, nằm la liệt giữa những chồng sách.

Bà nội của Vưu Linh kể lại, hàng tá Hồng vệ binh đã xộc thẳng vào sân và làm đảo lộn hết mọi thứ lên.

"Chúng nó nói bố cháu là gián điệp và mẹ cháu yêu thích những sản phẩm ngoại bang," Bà kể, "Chúng còn bảo bà là một tay tư bản." Nụ cười hiện ra trên khuôn mặt già nua của bà. Bà đã từng là một người bán tạp hóa trước khi Giải phóng, nên bà luôn bị coi là hạng tiểu tư sản.

Hóa ra nhóm Hồng vệ binh kia đã cuỗm hết gia tài của bà nội mà không hề để ý. Vài ngày trước đó, bà đã giấu một thỏi vàng và một số đồ trang sức bên trong khung của chiếc xe đạp hiệu Pigeon cũ của Vưu Linh. Hồng vệ binh đã đem chiếc xe đạp đi, nói rằng cái biểu tượng trên xe, một con chim bồ câu trắng với bầu trời xanh trên nền đỏ, là một lá cờ Quốc dân đảng trá hình. Vưu Linh và tôi đã dành vài giờ để lọc sạch đống đổ nát, sắp xếp lại đồ đạc và đặt sách trở lại giá sách. Tôi nhìn quanh phố khi rời khỏi nhà nhỏ, chỉ để chắc chắn rằng không ai bám theo mình.

Trước khi phong trào dọn dẹp diễn ra, tôi và anh Vệ Hoa hay về thăm nhà mỗi tháng một lần, để gặp ông ngoại và các em của mình. Thỉnh thoảng chúng tôi bắt xe buýt qua Linh Thọ, và đôi khi chúng tôi cuốc bộ nửa ngày để tiết kiệm tiền vé. Nếu gặp may, chúng tôi có thể quá giang trên một chiếc xe ba gác và về Chính Định trước khi trời tối.

Chuyến đi gần đây nhất của chúng tôi là vào hồi đầu chiến dịch viết áp phích đấu tố, khi các trường vẫn đang trong học kỳ. Chúng tôi xuất phát vào chiều thứ Bảy, mua vài cái bánh tiêu vừng ở nhà ga xe lửa gần trường học, trước khi lên đường từ Chính Định sang Linh Thọ. Chúng tôi ấn tượng với những cánh đồng bất tận, tô điểm với những đống lúa mì chín được thu hoạch dành cho mùa đông. Lúa mì cũng phủ kín một số đoạn đường mà nông dân đã mượn để làm chỗ đập lúa.

Chúng tôi đi qua hết ngôi làng này đến ngôi làng khác, trong đó là các nhà gạch, với sân giữa được che khuất bằng tường đất. Một số bức tường nhà dân sát con đường chúng tôi đi, được quét vôi trắng và mang khẩu hiệu bằng chữ to và sơn đỏ: “Không ngừng đấu tranh giai cấp!", hay "Hãy thực hiện Bốn Dọn dẹp cho đến cùng!" Có vẻ Cách mạng Văn hóa thậm chí còn chưa có tác động nào đến vùng nông thôn.

Chúng tôi đi trên con đường này không biết bao nhiêu lần, nhưng tôi luôn thấy phấn khởi. Địa hình luôn thay đổi, những cánh đồng bằng phẳng dần thế chỗ cho những ngọn đồi thoai thoải. Ngay cả những con dốc lên đồi đã được bao phủ lúa mì. Nông dân ở đồng bằng thu hoạch lúa mì bằng cách nhổ cả rễ, nhưng ở trên đồi thì lại dùng liềm cắt, để lại trên đất những gốc lúa màu nâu vàng. Khi hoàng hôn đến gần, có thể thấy dãy núi Thái Hành màu xanh nhạt ở đằng xa, lung linh dưới ánh mặt trời.

Bố chúng tôi đã chiến đấu với quân Nhật ở dãy Thái Hành, và sau đó lãnh đạo lực lượng du kích giúp đỡ Quân Giải phóng Nhân dân chống lại Quốc dân Đảng. Bố đã cho anh Vệ Hoa hai kỷ vật của thời chiến: một chăn bằng len màu xanh lá của lính Nhật và một cây bút máy Parker do Mỹ sản xuất. Bố tôi đã thu hai chiếc chăn làm chiến lợi phẩm sau khi chiến thắng trong một trận chiến với quân Nhật năm 1941, nhưng đã bán cái thứ hai đi sau khi cưới mẹ. Đơn vị của bố đã thu lấy cây bút từ một tay sĩ quan Quốc dân đảng vào năm 1948. Anh Vệ Hoa để hai báu vật đó tại trường học. Tôi cảm thấy thật ghen tị mỗi khi nhìn thấy anh ấy dùng chăn Nhật, hoặc cầm bút Parker trong tay.​
 
Sửa lần cuối:
11. CÙNG NHAU THU DỌN, GIỮA PHẢN VÀ TRUNG (tiếp)

Sau khi chúng tôi băng qua ranh giới hành chính giữa Chính Định và Linh Thọ, con đường lúc này chạy dọc theo con sông Hô Đà. Cột khói màu xám xanh từ bếp lửa bay lên từ ống khói của những ngôi nhà dọc bờ sông. Một chiếc xe bò kéo chất đầy lúa mì xuất hiện trên đường, anh em tôi liền chạy theo để bắt kịp. Người lái xe bò là một lão nông, dáng vẻ thô kệch với chiếc mũ rơm trên đầu, đang dựa vào đống lúa mì và ngân nga một giai điệu dân ca. Một chiếc tẩu thuốc dài với cối tẩu bằng đồng, loại mà bố chúng tôi hay hút, đung đưa trên môi ông. Chúng tôi vui vẻ chấp nhận lời đề nghị cho quá giang của ông ấy.

Khi anh Vệ Hoa khen vụ thu hoạch lúa mì mùa đông có vẻ bội thu, lão nông nói rằng công là do huyện trưởng Cao.

"Đó có phải là huyện trưởng Cao Sơn Quế không ạ?" Anh Vệ Hoa hỏi.

"Chứ còn ai vào đây nữa." ông ấy trả lời.

“Nhờ huyện trưởng Cao đào thêm giếng bơm năm ngoái," lão nông kể tiếp, "Nếu không, mùa đông rét khô sẽ làm hỏng cả mùa vụ. Ông Cao đến đích thân đến làng của bọn bác và bảo mọi người đào thêm giếng. Ông ấy thậm chí tự buộc mình vào một sợi dây rồi tự mình chui xuống hố đất để giúp đào giếng. Giếng nước lạnh kinh khủng luôn, và tuy ông huyện trưởng trông yếu ớt như một thư sinh, nhưng cứ cương quyết nhảy xuống. Bác đã sáu mươi lăm tuổi rồi, nhưng bác chưa bao giờ thấy một viên chức tốt với nông dân như thế. Ông ấy cũng khá am hiểu về nông nghiệp, không như hầu hết các quan chức từ thành phố ra."

Tôi hỏi lão nông rằng, có đúng là bố chúng tôi ăn mặc như nông dân. "Điều đó không quan trọng với bọn bác," ông nói. "Nhiều ông quan làm điều đó mang tính phô trương thôi. Quan trọng ở đây là cách hành động. Khi đi thị sát, ông Cao mang theo một sọt phân bón trên vai của mình và gom phân bừa trên đất. Sau đó, ông ấy trực tiếp bón vào ruộng của bọn bác."

Lão nông kể thêm với chúng tôi rằng, gần đây bố có sở thích đi vi hành. "Rất nhiều người đã viết thư cho ông huyện trưởng, phàn nàn rằng công nhân tại nhà máy than của huyện đã biển thủ than cho bạn bè, người thân. Do đó, ông ấy xuất hiện trong bộ quần áo nông dân tồi tàn để vờ mua than, và tay quản lý cho biết than đã được bán sạch. Ông Cao cứ nài nỉ, và gã quản lý bực mình xô ngã ông ấy luôn. Sau đó cấp dưới của ông Cao xuất hiện, nói với người quản lý đừng thô lỗ như vậy với huyện trưởng. Tay quản lý liền vô cùng sợ hãi và cầu xin sự tha thứ. Quận trưởng Cao phê bình hắn luôn và bảo phải đối xử với nông dân với một sự tôn trọng và dừng ngay việc biển thủ. Các cháu nghĩ thế nào?"

Khi lão nông thả chúng tôi xuống và rẽ vào một con đường đất nhỏ để vào ngôi làng của ông ấy, tôi suy nghĩ tại sao bố lại muốn ở lại vùng núi lạc hậu này. "Anh Vệ Hoa, có khi nào bố lại yêu quý những người nông dân hơn là bọn mình?" Tôi hỏi. "Vớ vẩn. Đó là công việc và nghĩa vụ của bố." Anh đáp lại.

Trung tâm hành chính huyện hiện ra trước mắt chúng tôi, nằm trong một lòng chảo, bao quanh nó là đồi thấp và sông Hô Đà. Làn khói bếp nghi ngút quyện vào ánh hoàng hôn, khiến khung cảnh trông giống như một ảo ảnh. Chúng tôi bắt đầu chạy xuống đồi, như một thói quen khi đến đoạn này. Chúng tôi biết chính xác những gì chờ đợi bên dưới. Ông ngoại sẽ nấu cho chúng tôi một bữa tối ngon lành. Kể từ khi bà ngoại qua đời, khi anh Vệ Hoa và tôi còn là những đứa trẻ sơ sinh, ông đã học cách làm tất cả những việc mà phụ nữ hay làm trong nhà. Chỉ Hoa và Tân Hoa sẽ bưng ra cho chúng tôi một chậu nước ấm và khăn sạch. Mai Nguyên sẽ giúp ông thổi bếp. Nhất Nguyên, với đôi mắt to và mái tóc dày, sẽ ngồi trên đầu gối tôi, và sau khi dỗ dành một chút, nó sẽ biểu diễn bài hát và điệu múa mới nhất mà nó đã học ở trường tiểu học. Bố chúng tôi lúc đó thường sẽ ở đâu đó quanh huyện để thị sát, còn mẹ thường ghé qua để hỏi thăm hai anh em.

Lần này mọi thứ đúng như chúng tôi đã mong đợi, ngoại trừ căn bệnh viêm phế quản mãn tính của ông ngoại nặng hơn trước một chút. Sau khi ăn xong, cả nhà ngồi cùng nhau trong phòng khách và tán gẫu đến tối muộn. Cảm thấy cần thiết, anh Vệ Hoa và tôi kể về các hoạt động Cách mạng Văn hóa đang diễn ra tại Chính Định. Trái lại, Cách mạng Văn hóa hầu như chưa có ảnh hưởng nào ở Linh Thọ. Mấy đứa em sau đó đi ngủ trên những cái giường đã được sưởi ấm ở phòng trong. Sau khi biến bàn ăn thành giường ngủ, với tấm ga trải giường và vài cái mền, tôi và anh Vệ Hoa cùng đi ngủ. Trước khi chìm vào giấc ngủ , tôi thấy ông ngoại đang ngồi bên ngọn đèn ở góc nhà, đọc qua một trong những cuốn sách dày của ông về đông dược. Trong Ba Năm Khó Khăn, ông ngoại đã vá áo quần của chúng tôi với dáng như vậy, dưới ánh đèn mờ.

Kể từ đó, anh em chúng tôi đã không thăm nhà được khoảng vài tháng. Vào cuối tháng 8, tôi quyết định nghỉ vài ngày khỏi chiến dịch dọn dẹp Bốn cái cũ. Tôi muốn biết thêm về sức khỏe của ông ngoại và có lẽ sẽ xin mẹ thêm một khoản tiền nhỏ, cho một chuyến tàu lên Bắc Kinh. Có tin đồn rằng Chủ tịch Mao sẽ đón tiếp Hồng vệ Binh lần thứ hai tại Quảng trường Thiên An Môn, vì vậy Ủy ban Tiến hành Cách mạng Văn hóa của trường đang tổ chức một chuyến đi đến Bắc Kinh.

Để tiết kiệm thời gian, tôi đã bắt xe buýt về nhà. Linh Thọ có vẻ yên bình khi tôi xuống xe. Trái ngược với Chính Định, các tòa nhà, bức tường và đường phố trông trống trơn, tìm kỹ mới thấy được vài ba tấm áp phích. Tôi cho rằng nguyên nhân của sự khác biệt trên chắc là do lịch sử khá yên bình của Linh Thọ. Quân đội đế quốc phương Tây đã tiến vào Chính Định để truy sát quân Nghĩa Hòa Đoàn, nhà thờ Công giáo đã cải đạo thành công cho bao nhiều người ở đó, quân Nhật đã chiếm thị trấn trong tám năm và Quốc dân đảng chiếm thêm hai năm nữa. Không khó cho việc tìm ra gián điệp, phản động và Hán Gian ở Chính Định. Linh Thọ thì lại khác, chưa bao giờ được các cường quốc phương Tây quan tâm và đã từng bị chiếm bởi quân Nhật trong một thời gian ngắn. Khi quân Giải phóng tiếp quản, nơi này đã sạch bóng Quốc dân đảng từ bao giờ.​
 
Sửa lần cuối:
11. CÙNG NHAU THU DỌN, GIỮA PHẢN VÀ TRUNG (tiếp)

Tôi đi bộ qua thị trấn Linh Thọ với bước dài, trên tay đeo chiếc băng đỏ Hồng vệ Binh bắt mắt. Tôi để ý rằng không ai ở đây ở đây đeo một cái băng tay, nên tôi vung tay ra sau, cố ra vẻ hoành tráng để mọi người có thể chú ý đến tay Hồng Vệ Binh đầu tiên ở Linh Thọ. Rẽ sang một góc phố, tôi đã đến nhà hát của huyện. Một đống các khẩu hiệu, được viết với nét chữ xấu như ma, trên những dải giấy bìa màu nâu và được dán bừa bãi trên bức tường ở phía trước của nhà hát, đã dừng tôi lại.

"Đả đảo Cao Sơn Quế!"

Tôi đọc và không thể tin nổi là mình đang thấy những gì. Tôi nhìn lại một cách cẩn thận. Dòng chữ không thay đổi. Tôi đọc tiếp, trong tim đập loạn xạ. "Cực lực phản đối Cao Sơn Quế đã đàn áp học sinh cách mạng!"; "Tên Cao Sơn Quế kia, hãy cúi đầu xuống và thú nhận tội ác của ngươi với nhân dân Linh Thọ!"; "Hãy tố cáo tên Cao Sơn Quế vì to gan đàn áp Cách mạng Văn hóa tại trường trung học trấn Linh Thọ!"

Tôi cắm đầu chạy về nhà, lúc đó ông ngoại đương nấu bữa tối. Ông bình thản lắng nghe khi tôi vừa thở dốc vừa kể cho ông nghe về các khẩu hiệu trên tường chỗ nhà hát. Các em trai của tôi đã kể với ông trước rồi, và ông đã tự thân đi ra ngoài để xem chúng. “Đừng lo,” ông trấn an tôi, "các cơn phong ba đến rồi lại đi. Ông đã chứng kiến nhiều phong trào chính trị diễn ra và chúng chẳng khác nhau mấy. Bây giờ, rửa mặt và tay của cháu đi và ăn chút dưa hấu nhé.”

Ông ngoại kể rằng, thủ phạm chính là nhóm học sinh trung học đang chống đối lại tổ công tác do Huyện ủy gửi đến đó. Tay bí thư của huyện đang vắng mặt để lãnh đạo công cuộc Bốn Dọn dẹp ở một huyện khác, vì vậy bố tôi đành phải làm cả bí thư lẫn trưởng huyện, và bọn học sinh kia nghĩ bố đã mời tổ công tác về. Ông ngoại liên tục trấn an tôi, rằng bố tôi đã hành động theo chỉ thị từ cấp trên và không có sai phạm nào trong công việc với tổ công tác. Hơn nữa, ngay cả khi bọn học sinh kia phản đối bố, những người nông dân trong huyện sẽ luôn ủng hộ và bao che.

Sáng hôm sau, mẹ tôi về nhà với vẻ mặt lo lắng. Vừa trở về từ nông thôn, bố tôi đã bị bọn học sinh săn lùng để tổ chức một buổi đấu tố. Huyện Linh Thọ lúc đó chưa có một Ủy ban chính quy của Hồng vệ binh. "Con thử đi nói chuyện với bọn học sinh kia xem sao?" Mẹ thúc giục tôi, "Có khi chiếc băng tay Hồng vệ binh trên tay con có thể khiến chúng chịu lắng nghe chăng?" Ý tưởng của mẹ làm tôi e dè. Bọn học sinh kia sẽ nghĩ sao về một Hồng Vệ Binh đang cố thương thuyết để bảo vệ gia đình mình? Liệu chúng có chịu lắng nghe tôi? Tuy nhiên, cứ phải thử cái đã.

Đầu tiên tôi đến trụ sở chính quyền của huyện, nhưng không tìm thấy đám học sinh, chỉ có một thanh niên đang viết Thông cáo Mười sáu điểm lên bảng tin cạnh cổng. Tôi liền đi đến trụ sở Đảng ủy huyện. Trên đường đi, tôi nhận thấy mái vòm bằng đá cẩm thạch ở cổng vào vào phía tây của thị trấn vẫn còn nguyên. Thời Chiến Quốc, vua nước Triệu đã ra lệnh xây dựng cổng vòm để kỷ niệm ngày sinh nhật thứ sáu mươi của mình. Phong trào phá bỏ Bốn cái cũ chưa tới kịp đây.

Bọn học sinh đang tập trung trong sân trụ sở Đảng ủy đều dán mắt vào chiếc băng tay đỏ khi tôi đến nơi. Tôi đi thẳng đến phòng ký túc xá nơi cha tôi đôi khi tá túc. Cánh cửa đã được đóng lại và niêm phong bằng hai dải giấy chéo, trên đó có ghi "Đóng cửa bởi lực lượng học sinh cách mạng của trường trung học Linh Thọ."

Quay trở lại sân, tôi hỏi một thằng bé rằng bọn học sinh đang chờ đợi ai. "Bọn em đang đợi tên Cao Sơn Quế quay lại," nó trả lời, trong khi chiêm ngưỡng chiếc băng tay của tôi một cách thèm thuồng. "Bọn em chưa thành lập đội Hồng vệ binh của huyện, nhưng hiện tại bọn em đang bàn về nó."

"Các bạn chờ huyện trưởng Cao để làm gì?"

"Hắn phải chịu trách nhiệm về những sai lầm của tổ công tác tại trường của bọn em. Hắn cũng ủng hộ hiệu trưởng của trường, một tên ủng hộ chủ nghĩa tư bản. Bọn em muốn hắn phải tự kiểm điểm”.

“Nào nào, chiến hữu,” tôi nói, “Hồng vệ binh chúng tớ ở Chính Định đã đuổi tổ công tác đi mà không cần sử dụng đến các biện pháp cực đoan, thậm chí còn tiễn họ ra cổng. Chúng tớ chẳng ai đổ lỗi cho huyện ủy về những sai lầm của họ.”

"Có lẽ tổ công tác của bên anh không quá tệ. Tổ ở trường bọn em dám quản thúc một học sinh trong suốt một tháng. Bây giờ anh ấy là lãnh đạo của bọn em."

"Mọi người mà tớ gặp ở đây đều nói Cao Sơn Quế là một trưởng huyện tốt. Ông ấy đã dành phần lớn thời gian sống ở những ngôi làng và làm việc trên đồng ruộng với nông dân. Tại sao phải đấu tố một người tốt?" Tôi cảm thấy gượng gạo khi ca ngợi về bố, nhưng đó là chiến thuật duy nhất mà tôi có thể nghĩ ra lúc này.

“Bọn em dĩ nhiên cũng nghe rất nhiều về những tấm gương tốt của hắn. Nhưng đây là một cuộc cách mạng, nên chúng ta không thể bị lạc hướng bởi những mặt tốt của hắn. Trưởng huyện Cao chỉ quan tâm đến lương thực, vải bông, và dầu, nhưng không phân biệt giữa địch, ta và các đồng chí cách mạng. Hắn ta không thèm giương cao ngọn cờ tư tưởng Mao Trạch Đông và đã bỏ bê đấu tranh giai cấp. Hai sinh viên chống đối từ Đại học Nam Khai ở Thiên Tân đã điều tra và phát hiện ra những điều này.”

Bọn học sinh trung học chắc chắn sẽ không bỏ cuộc, một khi đã có sinh viên đại học khuyến khích và truyền bá tư tưởng. Tôi cố thử một lần cuối.

"Tại sao các bạn không cho tên đó một cơ hội để sửa chữa những lỗi lầm của mình, thay vì đấu tố hắn ta?"

"Đó là những gì những người bênh vực hắn ở trường bọn em mong muốn. Nhưng bọn em không thể nhẫn nại như vậy được nữa. Cả nước đã vượt xa huyện Linh Thọ rồi."

Thật là vô vọng, chúng nó sẽ không thay đổi ý định. Tôi chầm chậm bước về nhà, nghĩ rằng sao mẹ tôi có thể phi thực tế và ngây thơ biết bao, khi cho rằng bọn học sinh chống đối kia sẽ dừng lại chỉ vì chiếc băng Hồng Vệ Binh của tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy ngượng ngùng với vẻ lố bịch lúc đó của mình.

Tôi lang thang trên những con hẻm đầy đá sỏi của thị trấn Linh Thọ, chưa dám thông báo thất bại của mình với gia đình. Thế nào tôi lại quay trở về nhà hát của huyện. Một đám đông ồn ào xuất hiện trên con đường chính của thị trấn, đi về phía tôi. Những người đi đầu đang đẩy một người đàn ông mảnh khảnh trong bộ áo khoác trắng bằng vải bông của nông dân. Khi họ đến gần hơn, tôi nhìn thấy khuôn mặt của bố, mặt hơi nhăn nhó với từng cú xô đẩy mỗi khi ông cố gắng đứng thẳng. Đám đông khiêng bố tôi lên bậc thềm nhà hát và rồi tống vào cửa.

Cánh cửa đóng lại sau lưng đám đông. Đường phố lại vắng tanh, chỉ còn lại một số học sinh đứng canh bên ngoài nhà hát. Tôi có thể nghe thấy tiếng kêu "Đả đảo Cao Sơn Quế!" vọng ra từ bên trong. Rồi tôi nghe thấy bố tôi trả lời, "Đảng Сộng sản muôn năm!” Rồi một tiếng thét lại vang lên, “Đả đảo Cao Sơn Quế!" Một lần nữa, bố trả lời, "Chủ tịch Mao muôn năm!" Bố tôi quả là can trường, y như một thanh kiếm thép đã được tôi luyện, thà bị gãy vụn còn hơn bị bẻ cong. Tôi đợi hồi lâu bên ngoài nhà hát chờ cuộc đấu tố kết thúc. Tiếng la hét dường như liên tục. Khi bọn học sinh cuối cùng đã mở cửa chính và tràn ra ngoài, bố tôi không có trong đó. Chúng có vẻ đã tống ông ra cửa sau.

Tôi lê bước về nhà. Trời đã chạng vạng tối, và tôi đã lên kế hoạch quay trở lại trường mình vào chiều hôm đó, nhưng tôi lúc đó không còn hứng thú với việc hoạt động cách mạng với bọn bạn cùng lớp nữa. Nếu như bạn bè cùng lớp phát hiện ra thân phận của bố tôi, chắc chắn chúng sẽ không muốn tôi tham gia cách mạng cùng. Lần đầu tiên trong đời, tôi phải đối mặt với bóng ma của việc bị coi là phần tử xấu. Gia đình tôi luôn là một gia đình cách mạng, và tôi là một người con được sinh ra trong gia đình có truyền thống cách mạng. Sao điều này có thể xảy ra với tôi chứ?

Khi tôi về đến nhà, anh Vệ Hoa đã ở đó. Anh đã điều tra tình hình ở trường trung học Linh Thọ và báo một tin vui: một số học sinh đã quyết định bảo vệ bố. Họ đã thành lập một tổ chức Hồng vệ binh, tên là Lực lượng Hồng vệ binh tuân theo chủ nghĩa Mao. Ngoài ra, dân quân tự vệ từ các làng lân cận cũng sẵn sàng giải cứu bố chúng tôi khỏi bọn sinh viên chống đối kia.

Bố tôi đã liều lĩnh đến mức đích thân đến trường sáng hôm đó. Ông đã dán một tấm áp phích đại diện cho Đảng ủy của huyện, hoan nghênh và sẵn sàng đón nhận các lời phê bình. Bọn học sinh chống đối kia tố cáo tấm áp phích là một trò bịp bợm. Họ yêu cầu rằng bố ngay lập tức phải sa thải hiệu trưởng của trường. Bố tôi lập luận rằng ông không thể tự mình làm điều đó, toàn Đảng ủy sẽ phải gặp nhau bàn bạc. Đó là lúc mà bọn chống đối đã quyết định bắt giữ bố tôi.

Ngày hôm sau, mẹ đến để nói với chúng tôi rằng ở các huyện lân cận, các viên chức đang thương lượng với cánh học sinh để trả tự do cho bố. Mẹ đã cho hai anh em tôi chút tiền để bắt tàu hỏa đến Bắc Kinh, và thêm một chút tiền tiêu vặt, rồi bảo chúng tôi nên quay trở lại học vì chẳng có việc gì để làm ở nhà. Đi bộ ra bến xe, chúng tôi bắt gặp những khẩu hiệu mới dọc đường khiến chúng tôi cảm thấy dễ thở hơn: "Chúng ta sẵn sàng chết để bảo vệ huyện ủy!”; “Chúng tôi đã sẵn sàng dành tính mạng mình để bảo vệ ông Cao Sơn Quế!"

Trong vòng vài ngày sau, mẹ viết thư cho chúng tôi rằng bố đã được thả ra. Cuộc đàm phán giữa các quan chức trong huyện và cánh học sinh đã thất bại. Nông dân và dân quân tự vệ với thuổng và cuốc đã xông vào trường học, cho bọn học sinh chống đối một trận tơi bời và tìm thấy bố bị giam trong một căn phòng khóa kín. Phe Hồng vệ binh theo chủ nghĩa Mao Trạch Đông đã cổ vũ lực lượng giải cứu. Ngay sau đó, bọn nổi dậy đã thành lập tổ chức riêng, tự xưng là Hồng Vệ Binh Tư tưởng Mao Trạch Đông. Bố tôi lo lắng, cho rằng cuộc đối đầu giữa phe Chủ nghĩa và phe Tư tưởng chỉ mới bắt đầu.​
 
Sửa lần cuối:
12. CÙNG YẾT KIẾN VỊ LÃNH TỤ CHÈO LÁI CÁCH MẠNG


Bản đồ du lịch Bắc Kinh ấn bản năm 1968. Các tên phố đa phần được đổi tên phỏng theo cách mạng.

Tôi không thể kiềm chế nổi sự phấn khích của mình, trước chuyến đi đến thủ đô vĩ đại của Tổ quốc. Đi từ Chính Định đến Bắc Kinh chỉ mất bốn giờ đi tàu hỏa, nhưng rất ít người trong số chúng tôi ở trường đã từng thực hiện chuyến đi này. Lần gần nhất tôi ghé thăm là hồi lớp năm tại Trường Tiểu học ở phố Dân Chủ. Trong chuyến thăm người thân ở quê hương Thủy Nguyên của tôi, dòng lũ đã cắt đứt cả tuyến đường bộ lẫn đường sắt về Chính Định. Để trở lại trường học, tôi đã đi vòng qua lối Bắc Kinh. Tôi đã dành hai giờ ở nhà ga xe lửa Bắc Kinh. Bây giờ, tôi sẽ không những chiêm ngưỡng Tử Cấm Thành và quảng trường Thiên An Môn, mà còn gặp gỡ vị lãnh tụ chèo lái con thuyền cách mạng vĩ đại, Chủ tịch Mao Trạch Đông!

Ủy ban Tiến hành Cách mạng của trường, theo lời của chủ tịch Đặng, đã khuyến nghị rằng mọi học sinh, dù có là Hồng vệ binh hay không, nên làm một chuyến đến Bắc Kinh để gặp Mao Chủ tịch. Tinh thần của Vưu Linh lạc quan hẳn, nhỏ cho tôi xem tấm ga trải giường mà nhỏ đã chuẩn bị cho chuyến đi, một chiếc túi đeo vai bằng vải màu xanh lục, một hộp nhôm, một chiếc cốc, bàn chải đánh răng và khăn tắm, và một bản sao của Hồng bảo thư bọc trong chăn bông. Thật không may rằng, ủy ban lại để cho mỗi lớp học ra quyết định cuối cùng. Thằng Bá Vương, một lần nữa nó lại đưa ra phản đối với những đứa có gia cảnh không tốt. “Chỉ có Hồng vệ binh mới có quyền được gặp Mao Chủ tịch!", nó thẳng thừng tuyên bố. "Mao Chủ tịch là chỉ huy vĩ đại của Hồng vệ binh, và chỉ riêng Hồng vệ Binh mà thôi!”

Lần này, thằng Bá Vương có sự hỗ trợ từ Viện Triều, đứa có dòng dõi quân nhân cách mạng kết hợp với bần nông, khiến nó trở thành đứa Hồng vệ binh màu mè nhất trong lớp chúng tôi. "Đồng chí Bá Vương nói đúng, bố mẹ chúng tôi đã theo gót Mao Chủ tịch để tham gia cách mạng và giải phóng Trung Quốc. Chỉ có chúng tôi mới được đi!", nó vừa nói vừa cố ưỡn ngực ra để chúng tôi có thể nhìn rõ bộ trang phục mới, một bộ quân phục cũ rộng thùng thình có gắn thắt lưng da của quân Giải phóng, chắc của bố nó cho. Viện Triều cũng ghim trên ngực mình một huy hiệu tráng men, kích thước bằng đồng xu, có hình chân dung của Chủ tịch Mao màu vàng trên nền đỏ.

Tôi lập luận rằng tất cả mọi người đều muốn đi gặp Mao Chủ tịch để học hỏi về công cuộc cách mạng, và mọi người đều xứng đáng để làm điều đó. Những học sinh có vấn đề về gia cảnh không thể chọn cho mình nơi sinh ra, và họ đã treo những tấm áp phích để minh oan cho bản thân. Vưu Linh và những đứa không phải Hồng vệ binh nhìn tôi chăm chú. Không ai trong số họ dám lên tiếng vì sợ bị kết tội “trả thù vì giai cấp”.

Số đứa trong phe Đỏ ủng hộ quan điểm của tôi ít hẳn. Khi chúng tôi bỏ phiếu, tôi lại thua. Bá Vương và Viện Triều cùng một số Hồng vệ binh đọc vè chế nhạo những đứa kia:

“Phượng sinh ra Phượng
Rổng đẻ ra Rồng,
Chuột con lúc nhúc,
Chỉ biết đào hang.
Anh hùng cách mạng,
Hậu duệ hưởng vinh,
Con cháu hữu khuynh,
Suốt đời làm phản!”


Vưu Linh ôm lấy đồ của mình và vừa chạy về nhà vừa khóc.

Phái đoàn của trường tôi để gặp Chủ tịch Mao, gồm khoảng một nghìn người, đã lên chuyến tàu đêm đến Bắc Kinh. Nhiều học sinh mặc quần áo kaki mới được cắt may giống quân phục mà phụ huynh chúng nó đã mua hoặc may cho. Mỗi người chúng tôi mang theo một chiếc khăn trải giường và một túi đựng đồ ăn trưa đã hấp chín, bao gồm bánh bao hấp, củ cải muối và hai quả trứng luộc.​


Hồng Vệ Binh gặp gỡ Mao Chủ tịch ở Bắc Kinh - 1967

Chúng tôi ngủ gật trên những chiếc ghế cứng, thỉnh thoảng thức giấc khi nghe tiếng còi tàu kêu lên mỗi khi qua các nhà ga nhỏ. Những người nông dân lên xe trong đêm, bao gồm những chiếc bao, thúng, đòn gánh nặng trĩu, với tất cả các nông sản trong đó, từ rau đến gà sống, thỏ và lợn con. Chuyến tàu chật kín người khi màn đêm bắt đầu buông xuống. Khi trời sáng, bản nhạc báo thức và tin tức buổi sáng được phát ra từ loa trên toa tàu. Mao Chủ tịch đã tiếp một nhóm Hồng vệ binh đợt thứ hai tại quảng trường Thiên An Môn. Điều đó có nghĩa là chúng tôi sẽ nằm trong đợt thứ ba.​
 
Sửa lần cuối:
12. CÙNG YẾT KIẾN VỊ LÃNH TỤ CHÈO LÁI CÁCH MẠNG (tiếp)

Đến nhà ga ở rìa tây nam của Bắc Kinh, điểm dừng của hầu hết các chuyến tàu từ địa phương, chúng tôi xuống tàu để đợi xe đón vào thành phố. Một số đứa bắt đầu ăn bữa trưa của mình, vài đứa khác lại giương cao lá cờ đỏ có chữ "Hồng vệ binh trường trung học Chính Định số 1". Đến giữa buổi sáng, một đội hình gồm hai mươi xe tải quân đội đến cửa ga. Chúng tôi ùn ùn lên phía sau của xe, đứng chen chúc với nhau để chắc chắn không ai có thể rơi xuống, và đoàn xe băng qua những con phố xa lạ. Tôi cố nhìn cổng Thiên An Môn nhưng vô vọng. Mọi người xuống xe trước cổng chính vào trường trung học số 101 của Bắc Kinh. Cổng chính tuy đóng nhưng một cánh cửa nhỏ ở giữa thì đương hé. Một ông lão ngồi trong một chòi canh cổng ở bên.

Một vài thanh niên đeo băng tay Hồng vệ binh xuất hiện, đứng canh bên ngoài lối vào. Thỉnh thoảng, những Hồng vệ binh khác sẽ vào hoặc ra khỏi cánh cửa nhỏ kia. Tôi không thể rời mắt khỏi những Hồng vệ binh ở Bắc Kinh này. Tất cả họ đều mặc đồng phục quân đội thật sự với thắt lưng da nâu và cài khóa đồng thau. Họ đi đứng một cách tự tin, trong dáng vẻ của những con người quan trọng. Tóc của họ có vẻ rất bóng mượt và gọn gàng, nước da của họ mịn màng và trắng một cách bất thường.

Tôi nhìn lại đám đông hỗn tạp của trường, tất cả đều nhăn nhó và quần áo bám bụi đường bạc phếch. Nhìn thoáng qua, bất cứ ai cũng có thể nói rằng chúng tôi đến từ nông thôn. Những khuôn mặt rám nắng, đầu tóc bờm xờm, quần áo xộc xệch và méo mó, và có mấy đứa con gái còn mặc áo kiểu nông dân, cài khuy truyền thống ở một bên. Hầu hết những vị khách từ nông thôn đây đều ngồi xổm xuống và dáo dác nhìn xung quanh. Tất cả chúng tôi lúc đó thật giống như Lưu Lão Lão, bà lão nông dân trong tiểu thuyết Hổng Lâu Mộng, ở cái đoạn khi bà đến phủ Vinh để gặp những người họ hàng giàu có của mình. Trong thực tế, chúng tôi thậm chí còn ăn mặc giản dị hơn Lưu Lão Lão, bà già trong truyện ít ra đã biết cách để ngồi lên kiệu. Còn chúng tôi thì không biết nên đứng bên phía đường nào để đón xe buýt.

Tôi lững thững đi đến cánh cửa nhỏ và liếc nhìn vào bên trong. Hai cái phướn to đùng treo bên ngoài khán phòng có câu đối mà thằng Bá Vương rất thích và hát câu vè từ chúng: “Cháu của anh hùng là dũng sĩ; Con của phản động là con hoang”. Phe Đỏ hay có mặt ở đây. Tôi hỏi người gác cổng rằng đây là kiểu trường học gì. Ông cho tôi biết, học sinh đa phần là con cháu của những sĩ quan cấp cao trong quân đội, từ cấp sư đoàn trở lên. Viện Triều, với bố nó là một sĩ quan với chức vụ cấp sư đoàn, sẽ nằm ở thứ bậc thấp nhất trong trường.

“Không có một ai có gia cảnh thuộc Bảy Hạng Xấu trong trường này,” ông bảo vệ nói một cách tự hào. "Tất cả học sinh đều thuộc Năm Hạng Tốt. Tôi chắc chắn rằng điều đó chưa chắc đúng với trường của cậu." Tôi nói với ông bảo vệ rằng ông đã đúng. Ông ấy liền phổng mũi, “Nếu cậu đợi được đến chiều nay, cậu có thể thấy hàng dài ô tô đến đón học sinh của trường để về nhà.”

Khi tôi nghiêng đầu vào cánh cửa nhỏ để liếc nhìn một lần nữa, một Hồng vệ binh bên trong liền đá mạnh vào cổng bằng chiếc ủng đen bóng của mình. "Tránh ra, đồ đầu đất!", hắn hét lên. Lúc hắn đứng ở cửa ra vẻ hống hách, với hai tay chống nạnh, tôi nhận thấy chiếc băng tay của tên này được làm bằng nhung.

"Biến đi, lũ khốn kiếp!" Hắn lại hét lên, bồi thêm một cú vào cổng.

"Sao anh dám đối xử với chúng tôi như vậy," tôi nói. “Chúng tôi cũng là Hồng vệ binh, hãy cần nhìn vào băng tay của chúng tôi đi. Chúng tôi đến từ Chính Định, tỉnh Hà Bắc."

"Ai thèm quan tâm đến cái vùng quê vừa vô danh vừa bẩn thỉu của chúng mày!" hắn lại hét lên, lại thêm một cú đá khác. "Tao bảo chúng mày cút đi cơ mà!"

“Chúng tôi đến đây để gặp Mao Chủ tịch,” tôi nói. "Sao anh dám hống hách như bọn địa chủ trong xã hội cũ vậy?”

"Thằng tiểu tử này! Mày dám so sánh tao với địa chủ à!"

Với một sải chân, hắn đã bước qua ngoài cánh cửa nhỏ và nắm lấy cổ áo tôi. Nhanh chóng, một số đứa bạn của tôi đã tới bên cạnh tôi. Tự thấy mình không chống lại được những học sinh tỉnh lẻ, tên học sinh Bắc Kinh ngạo mạn này đã đẩy tôi ra và chạy biến vào trong, không quên chửi thề lại. "Ai thèm trú lại cái ổ gớm ghiếc của của các anh chứ?" Tôi hét lên với hắn.

Sau khi một lúc lâu chờ đợi, chúng tôi biết chắc chắn rằng chúng tôi sẽ không trú ở cái trường trung học “ưu tú” này. Chủ tịch Đặng đã thử đàm phán trong vài giờ với ban giám hiệu của trường, nhưng họ từ chối tiếp nhận chúng tôi. Những chiếc xe tải quay lại để dẫn chúng tôi đến một địa điểm khác.

"Cổng Thiên An Môn kia!" ai đó hét lên. Chúng tôi liền rướn cổ lên để xem. Có cái gì đó sai sai, cái cổng đấy quá nhỏ, cỏ dại phủ kín các lớp gạch trên cùng. Và chỗ quảng trường rộng lớn kia đâu?

Đó không phải là Cổng Thiên An Môn, đó là Cổ Lâu. Chúng tôi tá túc tại trường trung học Cổ Lâu, trong một con hẻm nhỏ, chuyên dạy con em của những người lao động bình dân. Sau bữa tối trong nhà ăn, chúng tôi đi ngủ trên những tấm nệm rơm được trải trên sàn hội trường của trường. Chúng tôi sẽ ở lại đây, cho đến khi nhận được tin tức về cuộc tiếp đón tiếp theo của Chủ tịch Mao. Trong lúc đợi, chúng tôi tha hồ khám phá thành phố, đọc đại tự báo ở các cơ sở khác, và trao đổi kinh nghiệm cách mạng với Hồng vệ binh ở Bắc Kinh.

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi nhận được những tấm thẻ có đề "Những học sinh và giáo viên cách mạng đến thăm Bắc Kinh từ mọi miền Tổ quốc" để được đi xe buýt miễn phí. Mỹ Hồ, Nhị Xú, tôi và một vài đứa khác đã bắt xe buýt từ Cổ Lâu đến quảng trường Thiên An Môn. Mặc dù chúng tôi đã nhìn thấy nó qua biết bao hình ảnh trên sách báo, sự rộng lớn ở ngoài đời của quảng trường làm chúng tôi ấn tượng, như thể không có hình ảnh nào diễn tả được. Tọa lạc về phía bắc của quảng trường là Cổng Thiên An Môn - chính nơi mà vào tháng 10 năm 1949, Mao Chủ tịch đã tuyên bố, "Toàn thể nhân dân Trung Quốc đã đứng lên!" Hình ảnh của Người được trang trọng treo trên giữa cổng vòm. Sau cổng thoáng lấp lánh những mái ngói vàng của Tử cấm thành.

Chúng tôi qua cầu và đến chân cổng. Du khách đã viết các khẩu hiệu cách mạng nguệch ngoạc trên bức tường màu hạt dẻ: "Mao Chủ tịch muôn năm!" “Chúc Chủ tịch Mao sống lâu trăm tuổi!" "Mãi mãi theo gót Mao Chủ tịch để làm cách mạng!" Tôi lấy ngón tay mài dọc theo bức tường, để lại trên nó một đường kẻ nhạt. Lớp sơn màu hạt dẻ bong khỏi tường và dính lấy ngón tay tôi. Tôi muốn lưu màu quý giá này mãi mãi, bèn lấy nhật ký của mình ra khỏi túi, rồi tôi dùng ngón tay dính sơn của mình để viết lại địa điểm và ngày tháng kỷ niệm.​
 
Sửa lần cuối:
12. CÙNG YẾT KIẾN VỊ LÃNH TỤ CHÈO LÁI CÁCH MẠNG (tiếp)

Cổng Thiên An Môn là cánh cổng đầu tiên trong những chuỗi cổng dẫn vào vào Tử Cấm Thành. Chúng tôi đi qua cái cổng thứ ba, Ngọ Môn, là nơi các vị hoàng đế xưa ra lệnh chém đầu các tay quan lại đã phạm tội khi quân dưới ánh mặt trời giữa trưa. Gần đó là một con rùa đá vác tấm bia trên lưng, yêu cầu mọi quan quân đến chỗ này thì xuống ngựa và kiệu, trước khi bước vào khu vực bên trong của cung điện hoàng gia. Chúng tôi khá thất vọng khi thấy Ngọ Môn đã bị rào chắn. Chắc đây là một biện pháp phòng vệ trước ý định của một tay manh động nào đó muốn dẹp bỏ Bốn cái cũ.

Khi chúng tôi trở lại cầu Kim Thủy, Mỹ Hồ nhúng cái bi đông của mình xuống kênh và múc lên một chút nước kênh, óng ánh màu xanh lục, để mang về làng của mình. Chúng tôi nhìn qua quảng trường lớn. Trước mặt chúng tôi là Đại lộ Hồng Đông, cái tên mà mới chỉ đặt được khoảng hai tuần, thay cho cái tên cũ là Đại lộ Vĩnh Bình. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng thế gian này lại nhiều xe buýt, xe tải và ô tô đến vậy. Họ chạy dọc theo ba làn đường ở mỗi bên, còn xe đạp thì đi dọc theo làn đường thứ tư sát lề đường. Một cảnh sát giao thông đứng trên một bục nhỏ ở giữa đại lộ, vung một dùi cui trắng với tác phong điêu luyện và đẹp mắt.

Học sinh tại trường trung học Cổ Lâu đã kể với chúng tôi rằng Hồng vệ binh ở Bắc Kinh đã thực hiện một số thay đổi luật lệ giao thông, nhằm hưởng ứng phong trào dẹp bỏ Bốn cái cũ. Luật mới yêu cầu các phương tiện phải dừng lại ở đèn xanh và đi ở đèn đỏ, vì dừng ở đèn đỏ là phản cách mạng, và giao thông đó nên đi bên trái bên đường, kiểu như ở Anh, vì bên phải là hữu khuynh. Nhưng những luật lệ mới này đã bị bãi bỏ chỉ sau một vài ngày, bởi vì chúng đã gây ra quá nhiều tai nạn giao thông.

Thỉnh thoảng, những người đi xe đạp đi ngang qua ném những tờ bướm nhỏ lên vỉa hè. Một nhóm Hồng vệ binh đạp xe ngang qua, hát vang bài hát yêu thích của mọi người về Mao Chủ tịch:​

Lướt trùng dương, Người vẫn vững tay chèo lái,
Ngàn cây xanh nhờ ánh mặt trời.
Mưa xuân đến muôn hoa tươi đẹp,
Lực lượng ta đi lên có Mao Trạch Đông dẫn đầu.
Cá dưới hồ đang tung tăng bơi,
Vui sống tự do trong bình minh.
Nhân dân mình không sao rời xa Đảng Сộng sản,
Mao Trạch Đông dẫn lối ngời sáng chói như vầng dương.


Các cánh Hồng vệ binh ra vào công viên trồng thông ở phía nam của quảng trường. Trong vườn đó, chúng tôi phát hiện ra một sập buôn bán huy hiệu Mao Chủ tịch nhộn nhịp. Hầu hết các huy hiệu giống như cái của Viện Triều, kích cỡ đồng xu một hào. Một số lớn hơn một chút, cỡ tầm đồng xu hai hào. Tôi hỏi mua một cái phù hiệu. “Chúng tôi không phải là bọn con buôn,” một thằng bé chủ sập nói. "Chúng tôi chỉ trao đổi thôi. Hai cái nhỏ lấy một cái lớn." Nếu tôi không có có huy hiệu nào thì sao?” "Bạn có thể sử dụng ảnh Mao Chủ tịch. Mười bức ảnh cho một cái huy hiệu."

Tôi thấy có những thanh niên trên vỉa hè ở chỗ khác, bán tập ảnh Chủ tịch Mao tiếp nhóm Hồng vệ binh đầu tiên. Một bịch mười ảnh có giá tám xu, có vẻ khá đắt. Nhưng ý tưởng trở lại Chính Định với huy hiệu mang hình Người hấp dẫn tôi. Tốt nhất là tôi nên lấy hai cái huy hiệu và đưa một cái cho Vưu Linh. Tôi chạy đi tìm người bán ảnh rồi quay lại với hai bịch, và trao đổi chúng để lấy hai huy hiệu nhỏ. Tôi ghim một cái trên ngực mình và bỏ cái còn lại vào trong túi áo. Tôi chắc chắn rằng mình có thể cảm thấy được nhiệt huyết cách mạng của Chủ tịch Mao đang tỏa ra trong tôi.

Tôi và bọn bạn cùng lớp đi ăn trưa trong một nhà hàng đông đúc với những Hồng vệ binh khác. Đó là lần thứ hai tôi đi ăn nhà hàng. Đầu tiên là ở Thạch Gia Trang vào năm 1960, lúc đó các nhà ăn tập thể vừa đóng cửa hết, ông ngoại đã đem tôi đến Thạch Gia Trang để lấy bễ mới cho bếp lò. Ông ngồi vào bàn ăn trước, còn tôi thì đang đứng kế bên, khi tay bồi bàn đến, gã liền đánh vào đầu tôi bằng bó đũa, và nói: "Ra ngoài đi, thằng nhãi ăn mày!" Ông ngoại phải giải thích rằng tôi là cháu của ông.

Nhà hàng này chào đón chúng tôi bằng một tấm biển ở cửa: "Kính thưa các đồng chí cách mạng, để đóng góp một phần vào chiến dịch xóa sổ những thói quen và phong tục cũ, nhân viên nhà hàng chúng tôi đã quyết định rằng khách hàng nên tự phục vụ mình." Chúng tôi tự lấy cho mình bát mì Tứ Xuyên nóng hổi từ quầy phục vụ, rồi tự tìm cho mình một cái bàn và ngồi xuống. Một khẩu hiệu trên tường bên cạnh chúng tôi có hàng chữ: “Kiên quyết phản đối lối sống tư sản thối nát”. Khi chúng tôi ăn xong, cả bọn làm theo hướng dẫn của một tấm biển khác đặt trên một trong những cái bồn rửa: "Các đồng chí cách mạng, xin hãy rửa sạch bát đũa của mình”.

Chúng tôi bắt xe buýt đi về phía tây, dọc theo Đại lộ Hồng Đông, đến Bảo tàng quân đội. Máy bay do thám U-2 của Mỹ bị bắn hạ bởi lực lượng phòng không Trung Quốc, nằm trên bãi cỏ bên ngoài như một con quạ khổng lồ. Sau đó, chúng tôi quay trở lại thành phố để tham quan nhà ga trung tâm Bắc Kinh khang trang. Nhà ga có hai thang cuốn, một lên và một xuống. Chúng tôi lên xuống thang cuốn nhiều lần cho đến khi chán thì thôi. Khi chúng tôi trở lại trường trung học Cổ Lâu vào đêm khuya, giảng đường vẫn còn rộn rã với các câu chuyện về những cuộc phiêu lưu trong ngày. Một số học sinh đã đi băng qua Bắc Kinh đến Di Hòa Viên ở phía tây bắc vùng ngoại ô. Những đứa khác đã bắt xe buýt ở phía bên kia con phố và bị lạc.

Vào buổi sáng thứ ba của chúng tôi ở Bắc Kinh, tất cả chúng tôi đã bắt xe buýt đến rìa phía tây bắc của thành phố để thăm trường Bắc Đại. Khuôn viên dường như là một khu thành thị riêng biệt, một sự pha trộn của kiến trúc truyền thống và hiện đại, đặt giữa cảnh quan thanh lịch. Cho dù khung cảnh yên tĩnh, nơi này trông giống như một tổ ong. Mọi người tụ tập trên các lối đi và bãi cỏ, nói chuyện và tranh cãi, lắng nghe các bài phát biểu ngẫu hứng và nghiên cứu các bản áp phích. Các tấm đại tự báo ở khắp mọi nơi, trải khắp các bức tường, dán đầy lên các bản tin bảng, treo kín trên dây phơi quần áo giữa cây cối và cột điện. Lực lượng Hồng vệ binh từ khắp thủ đô đã bán tờ báo của riêng họ với giá hai hào một tờ. Thỉnh thoảng, một cơn mưa tờ bướm tuyên truyền được tung ra, và hàng trăm cánh tay với lên để tóm lấy chúng.

Tôi hòa vào đám đông tại sân thể thao trong trường, nơi nguyên bí thư và nguyên phó bí thư của trường, Lỗ Bình và Bành Bái Vân, đã nằm trong kế hoạch bị đem ra đấu tố lúc 10 giờ sáng. Hầu hết khán giả là những học sinh tỉnh lẻ như tôi. Có lẽ Hồng vệ binh của Bắc Đại đã chán với các buổi đấu tố ông Lỗ và bà Bành. Đến giờ đấu tố, một người đàn ông và một người phụ nữ đã được hộ tống ra ngoài. Xung quanh cổ của họ là những tấm bìa ghi những cáo buộc rằng họ là những phần tử chống Đảng. Họ cứ cúi đầu, trong khi một Hồng vệ binh phát biểu một bài ngắn gọn về tội ác của họ. Một Hồng vệ binh khác thẩm vấn ông Lỗ:

"Ông có phản đối Tư tưởng Mao Trạch Đông không?"

"Không, tôi không hề."

"Thế à, không phải ông đã đàn áp các sinh viên ở trường Bắc Đại sao?"

"Vâng, tôi đã làm, đó là lỗi của tôi. Nhưng tôi không chống đối tư tưởng Mao Trạch Đông."

Tay thẩm vấn hỏi hai câu tương tự với bà Bành, và bà ấy lặp lại câu trả lời y nguyên. Đám Hồng vệ binh hô vang một số khẩu hiệu và dẫn hai vị viên chức bị thất sủng đi.

Tôi dành thời gian còn lại trong ngày để nghiên cứu các đại tự báo. Tấm áp phích phổ biến nhất gần đây, là một trích dẫn trong bài phát biểu của nguyên soái quân đội Diệp Kiếm Anh, tiết lộ rằng bác sĩ riêng của Chủ tịch Mao đã kiểm tra sức khỏe của chủ tịch, và dự đoán Người sẽ sống đến trăm tuổi.

Một số áp phích tranh luận về hành vi của Đàm Lệ Phúc, một thủ lĩnh Hồng vệ binh có bố là một cán bộ cấp cao. Ông bố này được ghi nhận là người đã khởi xướng "học thuyết giai cấp theo huyết thống", đại khái giống như khẩu hiệu yêu thích của Bá Vương: "Cháu anh hùng thì lại là anh hùng, con phản động thì suốt kiếp chỉ tạo phản." Cấp dưới của đồng chí Đàm đã thành lập một tổ chức Hồng vệ binh riêng, có tên là “Nhất quán Hành động”, thực chất là nhóm mà chỉ con cái của các cán bộ cấp cao mới có thể được kết nạp. Một số người bắt đầu chỉ trích lý thuyết này là phản cách mạng. Tôi chợt nhận ra quan điểm trái chiều của tôi với thằng Bá Vương có thể bước sang một trang mới, nên tôi bắt đầu sao chép những bài bình luận có thể giúp tôi sau này.

Chúng tôi quay lại Bắc Đại vào ngày hôm sau và đến các cơ sở giáo dục khác trong những ngày tiếp theo. Chúng tôi vẫn chưa nhận được tin tức về cuộc tiếp đón lần tới của Mao Chủ tịch. Một ngày nọ khi chúng tôi đang ở Đại học Thanh Hoa, chủ tịch Đặng nói với chúng tôi rằng các nhà lãnh đạo của Ủy ban Trung ương và Nhóm Cách mạng Văn hóa Trung ương sẽ gặp gỡ các đại diện của Hồng vệ binh. Thầy ấy yêu cầu Ủy ban Cách mạng Văn hóa từ mỗi lớp đi theo thầy ấy đến một hàng xe buýt đậu bên đường. Những đứa khác không vui khi bị bỏ lại, nhưng chủ tịch Đặng trấn an chúng nó: "Đây chỉ là một buổi chiêu đãi nhỏ thôi. Mọi người ở đây sẽ có cơ hội gặp Mao Chủ tịch.” Thật không may, hàng xe buýt đã không lăn bánh. Chiều muộn, chủ tịch Đặng nói rằng buổi gặp gỡ đã bị hủy bỏ.

Một tuần trôi qua, vẫn không có tin tức gì. Một số học sinh trường tôi đã sử dụng hết tem phiếu ngũ cốc và tiền tiêu vặt của họ. Những đứa khác bắt đầu phàn nàn về những con rận trong đệm rơm. Sự kiên nhẫn của chúng tôi gần như cạn kiệt. Ngoài ra, chúng tôi đã ở lại quá hạn cho phép tại trường trung học Cổ Lâu. Đoàn Hồng vệ binh mới đang đến và họ cần chỗ nghỉ. Chủ tịch Đặng quyết định, chúng tôi nên quay về Chính Định.

Chúng tôi cố tự an ủi mình bằng cách cố chờ đến hai cuộc tiếp đón của Chủ tịch Mao vào ngày 18 và 31 tháng 8. Chủ tịch Deng đã tìm ra một cách thậm chí còn hay hơn để an ủi chúng tôi: Thầy ấy đã tìm được nguồn cung phù hiệu in hình Mao Chủ tịch và mua cho chúng tôi mỗi đứa một cái. Chúng tôi đã được xe tải đón trở lại nhà ga nơi mình đến. Lúc đó ai nấy đều phấn chấn trên chuyến tàu trở về Chính Định, và hát vang một bài hát mà chúng tôi đã học được ở Bắc Kinh:

Những căn nguyên của chủ nghĩa Mác,
Bao gồm hằng hà sa số lý do
Tuy vậy trăm lời có thể gói gọn
Thành một câu duy nhất mà thôi:
Nổi dậy là chính nghĩa!!
 
Sửa lần cuối:
LỜI BÌNH (4)

Bản thân cuộc Cách mạng Văn hóa đã là một sự kiện cực kỳ phức tạp, hay chính xác hơn là một quá trình. Mặc dù một số ý kiến cho rằng phong trào đã kết thúc với sự giải giáp Hồng vệ binh, và việc tái thiết trật tự xã hội của quân đội vào năm 1968-69, những quan điểm chính thức của Trung Quốc hiện nay xác định rằng Cách mạng Văn hóa đã kéo dài cả thập kỷ, 1966-76. Quan điểm này có lý, vì mất mười năm để giải quyết tất cả những mâu thuẫn do chiến dịch Cách mạng Văn hóa mà Mao đã gây ra. Với sự kiện được cho là đánh dấu sự kết thúc chính thức của Cách mạng Văn hóa, vụ bắt giữ Tứ nhân bang vào tháng 10 năm 1976, trớ trêu thay lại mở lối cho những nhân vật như Đặng Tiểu Bình và Hồ Diệu Bang phê phán phong trào này.

Chấn động đầu tiên của cơn địa chấn chính trị mang tên Cách mạng Văn hóa được bắt đầu vào mùa thu năm 1965, khi Mao phê chuẩn một lời tố cáo gay gắt của báo chí đối với những xu hướng của chủ nghĩa xét lại trong văn hóa Trung Quốc. Cuộc tấn công này, ban đầu xuất hiện chỉ là một phần chiến dịch thường niên khác Đảng, lên án những trí thức được coi là đã thực hiện công cuộc tự do văn hóa “quá đà”. Nhưng Mao nhanh chóng trở nên bất bình, trước những nỗ lực của các quan chức chịu trách nhiệm giám sát chính sách văn hóa, vì đã coi việc phê bình chỉ đơn thuần là một cuộc tranh luận học thuật và chỉ làm lu mờ các ý nghĩa tư tưởng và chính trị hàm chứa trong các xu hướng tự do của giới trí thức Trung Quốc.

Sự sao nhãng của các cán bộ cao cấp đã khiến Mao chắc chắn rằng Đảng không thể tự thanh lọc bản thân. Vì vậy, ông sẽ phải mượn sức nhân dân để đưa Đảng trở lại đi theo với lý tưởng của mình. Mao chắc chắn việc huy động quần chúng nhân dân chống lại một lực lượng chính quy mạnh mẽ nhưng mục nát về ý thức hệ của Đảng Сộng sản sẽ chấm dứt chủ nghĩa xét lại. Đó sẽ là một “cuộc cách mạng từ bên dưới lên", mặc dù người truyền cảm hứng và ra lệnh lại là một vị chủ tịch đương đứng trên đỉnh cao của quyền lực.

Đến mùa xuân năm 1966, Cách mạng Văn hóa đã bùng nổ, trong đó phe phản cách mạng trong Đảng, cùng với "những ai ủng hộ giai cấp tư sản" trong giới học thuật và văn hóa, đã được xác định là các mục tiêu tấn công. Đây là chính là sự khởi đầu của giai đoạn huy động đại chúng của Cách mạng Văn hóa, cũng là điểm khởi đầu trong tự truyện của Cao Nguyên. Ở đó quyền lực trung tâm được trao cho bàn tay của các hệ tư tưởng cực tả cấp tiến, và kết quả là tình trạng vô chính phủ chiếm ưu thế. Trật tự xã hội hoàn toàn bị tê liệt bởi cuộc săn lùng những người theo chủ nghĩa xét lại hoặc ủng hộ ngầm cho những người chống đối ở địa phương.

Tất nhiên, trọng tâm của giai đoạn này là sự thành lập Hồng vệ binh, một từ chung cho các nhóm học sinh sinh viên theo lời kêu gọi của Mao để chiến đấu chống lại kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. Hồng vệ binh lần đầu tiên xuất hiện một cách tự phát trong các trường đại học ở Bắc Kinh để chống lại những nỗ lực kiểm soát của ban giám hiệu trường học (họ hành động theo hướng dẫn của quan chức cấp cao trong Đảng), để hạn chế phạm vi của Cách mạng Văn hóa để nhằm chỉ trích một số học giả và quan chức hàn lâm. Khi tin tức về cuộc nổi dậy của sinh viên Bắc Kinh lan rộng, các tổ chức Hồng vệ binh nhanh chóng mọc lên khắp Trung Quốc.

Một cuộc họp lớn của Đảng đã diễn ra vào tháng 8 năm 1966, cho phép quần chúng nổi dậy trở thành nguồn lực chính của Cách mạng Văn hóa (trớ trêu thay, vì nhiều các nhà lãnh đạo có mặt tại cuộc họp đó sau đó bị tấn công bởi chính quần chúng mà họ đã cho phép nổi dậy). Các lực lượng Hồng vệ binh đã nhận được lời chúc phúc từ chính Mao, để tiếp tục nỗ lực hơn nữa trong việc vạch trần chủ nghĩa xét lại, trong tám cuộc tiếp đón nồng nhiệt từ giữa tháng 8 đến tháng 11 năm 1966, với khoảng mười ba triệu thanh thiếu niên tham dự. Do đó, Hồng vệ binh trở thành một trong những trụ cột của tư tưởng Mao Trạch Đông trong giai đoạn đầu của cuộc Cách mạng Văn hóa. Họ đã được củng cố bởi một số thành phần của Quân đội Giải phóng Nhân dân, dưới sự chỉ huy của của Lâm Bưu, người mà Mao cho là có “nền đạo đức cách mạng duy nhất còn sót lại trong các thể chế xã hội đang tồn tại”, và một nhóm những người hệ tư tưởng cấp tiến, bao gồm vợ của Mao, Giang Thanh, và thư ký riêng lâu năm của Mao, Trần Bá Đạt, là một trong số ít các nhà lãnh đạo quốc gia nổi bật trong các sự kiện được mô tả bởi tác giả Cao Nguyên.​
 
13. MA QUỶ RỜI ĐI VÀ BẢO VỆ SƠN QUỶ

Khi chúng tôi trở lại trường, tôi đã mở ga trải giường của mình và đã dành phần lớn thời gian trong ngày để ngủ bù sau chuyến đi mệt mỏi. Chiều hôm sau, tôi chạy đi tìm Vưu Linh. Tôi biết nhỏ ấy sẽ rất vui với món quà huy hiệu Mao chủ tịch. Tôi cũng có thể nói với nhỏ ấy rằng đừng buồn, bởi vì chúng tôi cũng không có cơ hội diện kiến Mao chủ tịch.

Khu phố của Vưu Linh tỏa ra một bầu không khí yên tĩnh lạ thường. Đến gần nhà nhỏ, tôi thấy những dải giấy trên cổng chính. Tôi sán lại và đọc dòng chữ trên đó: "Bị niêm phong bởi lực lượng cách mạng quần chúng của phố Dân Chủ” Dòng chữ ghi thời gian niêm phong mới hôm qua. Khi tôi đứng đó tự hỏi rằng hai bà cháu Vưu Linh có thể ở đâu lúc này, ai đó đã vỗ vai tôi ở phía sau. "Đồng chí Hồng vệ binh à, anh đứng ở chỗ này làm gì?" Quay lại, tôi thấy một thiếu niên trạc tuổi tôi đang sụt sịt.

"Tôi đang tìm bạn cùng lớp của tôi, nhà nhỏ ở đây." Tôi đã nói.

"Em e là anh sẽ không tìm thấy bạn ấy ở đây nữa. Bạn gái đấy và bà nội được yêu cầu trở về quê hương của họ ở tỉnh Sơn Tây. Họ rời đi vào sáng hôm qua, được hộ tống bởi hai đồng đội từ Ủy ban Cách mạng khu phố. Em được chỉ định để canh giữ chỗ này."

"Thế cậu có biết tại sao họ lại rời đi không?"

“Mọi người đều nói họ là phần tử xấu nên không thể ở trong thị trấn được. Về quê hương thì họ sẽ phải lao động và nghe lời dạy bảo từ những người bần nông và trung nông.”

Đồng chí này dừng ngang quệt đi dòng nước mũi thò lò rồi tiếp tục.

“Mỗi con phố ở trong thị trấn có những phần tử xấu như bà lão này. Bà ấy có vẻ thất nghiệp, không có cơ quan đoàn thể nào để theo dõi. Kiểu người này có thể dễ dàng lợi dụng thời điểm rối ren như này, để tiến hành hoạt động phá hoại phản cách mạng đấy anh.” Tôi nhìn chằm chằm vào ông em này để xem có ý mỉa mai với tôi không. Nhưng nó trông có vẻ nghiêm túc.

Tôi quay trở lại trường học, đi theo lối tắt quanh đầm sậy. Những khóm hoa liễu đang kết hạt, màu trắng mịn của chúng đang đung đưa trong làn gió nhẹ. Mặt trời dần xuống thấp ở phía tây.

Tôi móc chiếc huy hiệu Mao Chủ tịch dành cho Vưu Linh từ bên trong túi của mình ra, nhìn nó lấp lánh trong ánh nắng cuối ngày. Tôi đã mong được tặng nhỏ món quà này và nhìn mặt nhỏ rạng rỡ hơn. Tôi nghĩ về Vưu Linh và bà nội nhỏ ở quê. Họ sẽ sống sót được không? Tôi nhớ một câu chuyện trên tờ báo Hồng vệ binh, về chuyện dân làng xử tử địa chủ và phú nông. Vưu Linh có an toàn không, khi nhỏ được sinh ra từ một gia đình phần tử xấu? Liệu nhỏ sẽ trở lại Chính Định?

Những câu hỏi chồng chất trong đầu tôi làm cho đầu óc tôi muốn vỡ ra. Nước mắt tôi cứ trào ra. Tôi úp mặt vào một tảng đá bên đường và khóc. Mặt trời lặn trong khi tôi cứ ngồi đó và khóc suốt. Chỉ khi cơn gió lạnh buổi tối bắt đầu làm tôi rùng mình, tôi đành đứng dậy và loạng choạng quay trở lại ký túc xá của trường trong bóng tối.

Vào giữa tháng Chín, Mao Chủ tịch đã tiếp đón Hồng vệ binh tại Bắc Kinh lần thứ ba. Đội ngũ Hồng vệ binh của trường tôi cảm thấy như bị coi thường. Một số đứa học sinh đổ lỗi cho thầy chủ tịch Đặng vì đã cho chúng tôi quay lại trường quá sớm. Những người khác muốn đi đến Bắc Kinh một lần nữa.

Chủ tịch Đặng lúc đó lại nghĩ về những thứ khác. Một điều trong Mười sáu điểm cho biết những người tham gia Cách mạng Văn hóa nên "tuân theo cách mạng, thúc đẩy sản xuất." Hơn nữa, trường chúng tôi vốn có truyền thống giúp đỡ nông dân địa phương trong những lúc cao điểm mùa vụ, và các nông dân đã sẵn sàng trồng lúa vụ đông. Vì vậy, tất cả các học sinh, có là Hồng Vệ Binh hay không, sẽ phải đến hợp tác xã Vĩnh Phúc lao động trong một tháng. Những phần tử xấu sẽ ở lại phía sau và làm việc trong vườn rau của trường.

Hợp tác xã Vĩnh Phúc cách trường tôi tầm một giờ đi bộ, nếu men theo con đường tắt đến Linh Thọ. Hợp tác xã bao gồm gần chục làng. Lớp tôi ở với các gia đình của gia tộc Tính. Một nửa số dân trong hợp tác xa mang họ Tính, và nửa còn lại hầu như là Lương hoặc Đổng. Tôi đã ngủ trên một chiếc giường sưởi với hai học sinh khác, và một ông bác trưởng nam to khỏe tên là Tính Mạch Thọ. Cánh tay của bác đã sần sùi như vỏ thông và xương sườn nhô ra như một giàn giáo bằng tre. Tôi thấy một cái áo quan bằng gỗ, mà con trai bác đã làm cho bác, đang để ở xó nhà. Nhưng khi tôi hỏi sức khỏe của bác ấy như thế nào, bác liền đã vỗ ngực và thốt lên: "Bác chưa già đâu! Tướng quân Hoàng Trung thời Tam Quốc vẫn chiến đấu trên lưng ngựa ở tuổi bảy mươi, còn đây mới chỉ sáu mươi tám!”

Cách mạng Văn hóa không bỏ sót làng Tính. Địa chủ, phú nông và các phần tử xấu khác được đặt dưới sự giám sát, giống như hồi Cải cách Ruộng đất. Ngoài việc làm ruộng, họ còn phải dậy sớm hơn mọi người khác để đi quét đường làng. Họ rất dễ nhận ra vì tất cả đều đeo băng tay màu đen, với thân phận được mô tả bằng các ký tự màu trắng.

Bản thân những người nông dân ở đây đã biểu quyết về việc bãi bỏ nền nông nghiệp tư nhân, hay những mảnh ruộng trồng rau trong hộ gia đình. Hiện nay tất cả mọi thứ thuộc về hợp tác xã. Một ngày làm việc bắt đầu với việc đọc thuộc lòng những câu danh ngôn của Mao Chủ tịch. Vì nhiều nông dân hầu như không biết chữ, cánh học sinh chúng tôi đọc to cho họ nghe. Trong giờ giải lao, chúng tôi hát những bài ca cách mạng. Đôi khi chúng tôi chọn ra một phần tử xấu có băng tay màu đen và tiến hành một cuộc đấu tố ngay trên bờ ruộng.

Tính Mạch Thọ là người gieo hạt tốt nhất trong đội sản xuất của bác ấy. Sử dụng một cỗ máy kéo nguyên thủy gieo hạt giống từ hộp, bác có thể gieo hai hàng cùng một lúc. Công việc trong tay bác trông như là một chuyến đi dạo trên ruộng. Theo sau là một người nông dân khác, kéo theo một xe lu có bánh xe bằng đá để đầm đất xuống.​
 
13. MA QUỶ RỜI ĐI VÀ BẢO VỆ SƠN QUỶ (tiếp)

Một buổi sáng, khi bác Tính ngồi xổm giải lao trên đất mới cày để hút thuốc, còn tôi ngồi xuống bên trục lăn để nghỉ ngơi, tôi chợt thấy rằng các dải giấy mà bác ấy đang sử dụng để cuộn thuốc lá của mình được bao phủ bởi chữ viết. Tôi nhặt một đoạn giấy và nhận ra rằng nó đã được cắt từ một tờ truyền đơn.

"Bác đã lấy miếng giấy cuốn thuốc này ở đâu vậy, lão đại?" Tôi hỏi.

"Mấy ngày trước tại chợ Chính Định."

"Bác có đọc được chữ không ạ?"

"Đọc? Haha! Bác còn chả biết viết tên mình thế nào!"

"Bác có thường đến vào ngày họp chợ ở Chính Định không ạ?"

"Hồi trước thì không, nhưng giờ thì đi suốt, vì bây giờ có rất trò vui đang diễn ra trên phố. Và bác luôn luôn lấy được một đống giấy lớn miễn phí."

Tôi đã theo dõi bác Tính về nhà phiên chợ hôm sau. Quả nhiên là trên tay bác là một chồng lớn các tờ truyền đơn cách mạng. Tối hôm đó, bác ấy nhờ tôi giúp cắt giấy để làm cuộn hút gói thuốc lá. Khi chúng tôi cắt giấy thành dải dài, tôi nghĩ thật may mắn làm sao khi bác Tính được xuất thân từ nhiều thế hệ nông dân nghèo. Tôi không dám nghĩ đến những hậu quả có thể xảy ra, với một cựu địa chủ hay phú nông dám cả gan cắt xén truyền đơn cách mạng!

Sau khi ruộng được gieo xong, tôi quyết định về nhà, vì từ đó đi Linh Thọ đã chiếm một phần tư quãng đường từ Chính Định. Khi tôi xuống xe buýt ở Linh Thọ và hướng về trung tâm thị trấn, tôi bắt gặp các đại tự báo trải khắp các tòa nhà, từ móng đến tận mái hiên. Tôi càng đến gần trung tâm thị trấn, càng nhiều áp phích đấu tố hơn. Hầu như tất cả đều nói về bố tôi. Đa số dường như đang chống lại bố. Ngoài cái mác cũ rích là “tay đao phủ đã đàn áp phong trào học sinh”, danh hiệu mới đáng sợ, "kẻ ủng hộ tư bản", xuất hiện.

Một khẩu hiệu hoành tráng bằng những chữ to đùng treo phía trước cửa hàng mậu dịch của thị trấn ghi rằng: "Hãy lật đổ kẻ ủng hộ tư bản trong Đảng, Cao Sơn Quế!", nhưng chữ cuối đã bị thay đổi, biến chữ Quế của bố thành Quỷ, phát âm kiểu như “Cao Sơn Quỷ" và hai dấu X lớn màu đỏ, biểu thị bản án tử hình, được sơn đè lên trên tên.

Tôi dừng lại để đọc một tấm áp phích khác, có tựa đề "Vạch trần thói đạo đức giả của Sơn Quỷ!" và có chữ ký của bọn Hồng Vệ Binh ủng hộ Tư tưởng Mao Trạch Đông từ trường trung học Linh Thọ. Nó cáo buộc thói quen hút tẩu bằng một tẩu tre dài của bố là một trò lừa bịp, để khiến mọi người nghĩ rằng ông đồng cảm với nông dân. Nó còn ghi bố tôi thực sự nhét thuốc lá điếu xuất khẩu chất lượng cao vào cối tẩu.

Thật là ngớ ngẩn! Bố tôi đã luôn luôn hút loại thuốc lá mà ông hay mua ngoài phố, cùng loại mà nông dân hay hút. Tôi thậm chí đã giúp bố nướng qua những chiếc lá trên bếp. Bố tôi chỉ hút khi có khách đến thăm. Nếu lúc nào bố tôi ấy gom tàn thuốc còn sót lại và bỏ thuốc lá vào cối tẩu của mình, đơn thuần vì bố tôi không thích lãng phí. Làm thế nào mà bọn học sinh này có thể đưa ra những lời buộc tội lố bịch như vậy?

"Thật sự là không công bằng!" Tôi nói to. Vài người qua lại không thèm để ý tôi. Những học sinh đeo băng tay đỏ đã không còn hiếm thấy ở thị trấn này. Càng nhìn vào tấm áp phích này, tôi càng tức giận hơn. Tôi rút ngay bút ra và ghi vào lề, "Hoàn toàn bịa đặt! Bọn mày chết đi!" Tất nhiên, tôi đã không ký tên của tôi vào.

Một tấm áp phích khác của bọn Tư Tưởng ghi rằng, chúng đã trưng dụng một chiếc xe tải và chở một ban đại diện đến chính quyền tỉnh ở Thạch Gia Trang, để yêu cầu cách chức bố tôi. Có vẻ như những kẻ thù ghét bố tôi đang ra tay. Lần trước tôi nghe thấy các nông dân địa phương đang tập hợp lại để bênh vực bố. Bây giờ những người bảo vệ ông ấy ở đâu? Tại sao họ lại im lặng?

Về đến nhà, tôi thấy ông ngoại đang đọc một trong những cuốn sách Đông dược của mình. Phong thái thanh thản của ông làm tôi bình tĩnh lại một chút. Có lẽ lúc này gia đình cũng chưa bị sao. Nhưng ông ngoại không nắm được nhiều tin tức. Bố tôi, theo những gì ông hiện biết, đang đi thị sát quanh các ngôi làng.

Mẹ tôi ghé về nhà một lúc. Mái tóc của mẹ, trước luôn cắt ngắn, giờ đã dài đến vai và có thể nhìn thấy những sợi tóc bạc ẫn giữa mái tóc đen. Mẹ nói với tôi rằng bố đang ở nông thôn và không có thời gian để dây dưa với bọn học sinh.

Tôi hỏi mẹ tôi, ít ra bố cũng phải đứng lên bác bỏ những cáo buộc vô căn cứ chống lại mình. “Vô ích thôi,” mẹ trả lời. "Bọn học sinh kia không thèm nghe lấy một lời chứ. Bố anh không muốn lãng phí thời gian của mình. Ông thậm chí còn ngăn cản những người muốn bênh mình cơ. Bố anh bảo, tốt hơn là để cho bọn học sinh quậy phá một thời gian, khi nào chúng nó chán thì chúng nó tự dừng.” Khi tôi đề cập đến tấm áp phích báo cáo về việc bọn Tư Tưởng đi lên gặp chính quyền tỉnh, mẹ nói rằng phe Chủ Nghĩa và một số dân làng đã chặn chiếc xe tải. Tuy nhiên, chính bố tôi đã nói với những người ủng hộ ông rằng, hãy để bọn Tư Tưởng đi, bố không sợ mất chức của mình nếu chính quyền coi ông ấy không đủ tiêu chuẩn.

Sau khi mẹ rời đi, tôi bắt đầu lo lắng cho bản thân mình. Sớm hay muộn, lũ bạn của tôi rồi sẽ tìm hiểu về bố. Sau đó chúng nó chắc chắn sẽ loại trừ anh Vệ Hoa và tôi làm cách mạng. Ông ngoại dường như đọc được suy nghĩ của tôi. "Trường hợp của bố cháu đâu phải phần tử xấu," ông điềm tĩnh nói. "Đồng chí Cao Sơn Quế là một lão thành cách mạng, và còn là người đứng đầu huyện. Không ai ngăn cản các em của cháu làm cách mạng ở trường tiểu học. Ông bật mí cháu nghe, Nhất Nguyên, thật ra là một ngôi sao múa trong các buổi tuyên truyền tư tưởng Mao Trạch Đông ở trường."

Bốn đứa em tôi đi học về trông vẫn vui tươi như thường ngày. Tôi đã hỏi chúng nó rất kỹ về tình hình chính trị trong thị trấn, và đặc biệt là về bọn Tư Tưởng.

"Không ai ủng hộ chúng nó đâu anh," Chỉ Hoa nói, giọng rất chững chạc.
"Tất cả chúng đều bị ung nhọt hết rồi," Tân Hoa nói.
“Anh đừng lo, bố sẽ thắng,” Mai Nguyên phát biểu.
"Hầu hết những ai đồng tình với phe Tư Tưởng trong trường đều bị phụ huynh quản thúc rồi!" Nhất Nguyên nói.

Sự tự tin của chúng nó đã cổ vũ và khuyến khích tôi. Trong lúc ông ngoại đang thái rau, tôi bảo với các em rằng tôi cần sự giúp đỡ của chúng nó trong một nhiệm vụ rất quan trọng. Không được hé răng bất cứ ai, kể cả ông ngoại, bố và mẹ. Chúng nó đều đồng ý kế hoạch của tôi. Sau bữa tối, tôi dẫn toán “biệt động” của mình vào trung tâm thị trấn. Chỉ có một vài ngọn đèn đường lờ mờ chiếu sáng lối đi của chúng tôi qua những con phố vắng vẻ. Khi tôi ra lệnh tiến lên, năm anh em chúng tôi lao tới bức tường gần nhất và bắt đầu xé bỏ các đại tự báo. Chúng tôi đi từ tòa nhà này sang tòa nhà khác, xé các tấm áp phích một cách điên cuồng. Khi chúng tôi đến cửa hàng mậu dịch, tôi xé toang tấm áp phích về chiếc tẩu của bố, cắt vụn và ném xuống đất. Sau nửa giờ thi hành, cả bọn rút lui. Chúng tôi không muốn bị bắt vì tội phá hoại công cuộc Cách mạng Văn hóa. Tôi dẫn các em của mình chạy qua các con đường vòng vo, để dùng kế nghi binh cắt đứt bất kỳ cái đuôi nào bám theo. Chúng tôi lẻn về nhà dưới sự che chở của màn đêm.

Sáng hôm sau, tôi vào trung tâm thị trấn để hóng hớt. Một số đứa trong bọn Tư Tưởng đã tức điên và viết thêm áp phích, cáo buộc phe Chủ Nghĩa là thủ phạm. Tôi mua thịt bò hầm và bánh tiêu vừng từ một người bán rong. Khi các em của tôi từ trường về nhà ăn trưa, tôi thưởng chúng với bánh vừng nhồi thịt bò hầm. Ông ngoại hỏi về sự hào phóng bất thường của tôi, và tôi không thể cưỡng lại việc nói với ông về chiến công của cả bọn. Ông ngoại liền làm một khuôn mặt nghiêm khắc và nói với chúng tôi rằng không được làm vậy nữa, nhưng đôi mắt ông lấp lánh với niềm vui sướng.

Khi tôi lên xe buýt về Chính Định chiều hôm đó, tôi bắt đầu nghĩ về cuộc sống của tôi, đã trở nên mâu thuẫn như thế nào. Tại trường học, tôi là một người thi hành cách mạng, một kẻ chống đối bá quyền, một Hồng vệ binh. Ở nhà, tôi đã trở thành một tay phản cách mạng, một người bênh vực mục tiêu, một người chống lại bọn Hồng vệ binh Tư Tưởng. Sự mâu thuẫn trên không làm tôi bận tâm cho lắm. Tôi đã tìm ra một lý do cho nó: Nếu tôi không bảo vệ bố mình và thay vào đó để ông ấy bị hạ gục, tôi sẽ trở thành một người thuộc phần tử xấu. Khi đó tôi sẽ không còn khả năng đóng góp cho Cách mạng Văn hóa nữa. Vì vậy, hành động của tôi là hợp lý. Chống lại các cáo buộc phi lý chẳng phải là chính nghĩa sao!​
 
14. TAY THỢ MỘC GIÁN ĐIỆP

Khi chúng tôi trở lại trường với làn da rám nắng và vạm vỡ sau gần một tháng ở nông thôn, Ủy ban Tiến hành Cách mạng của trường hướng dẫn chúng tôi lập hồ sơ theo dõi giáo viên. Mỗi lớp học được giao nhiệm vụ nghiên cứu các bằng chứng từ áp phích và các tài liệu khác, cộng với xác minh hoặc loại bỏ các cáo buộc. Mục đích là để tìm ra càng nhiều giáo viên "chấp nhận được" càng tốt. Họ sẽ được phép làm cách mạng với chúng tôi.

Đang ngồi trong lớp đọc hồ sơ về thầy Lý, tôi bắt gặp một bản báo cáo có chữ ký của Bá Vương và Mỹ Hồ, cáo buộc rằng thầy Lý đã cố tình xuyên tạc một đoàn văn mà thầy từng đọc cho chúng tôi nghe, về một phụ nữ Сộng sản bị giải ra pháp trường. Theo hai thằng, văn bản gốc cho biết nữ chiến sĩ đã “đi với thế ngẩng cao đầu, làn gió ban đêm đã vuốt mái tóc hoa râm của cô", nhưng thầy Lý đã mô tả lại là "đang run rẩy trong hoàn cảnh mà mình đối mặt". Họ nói rằng thầy Lý đã cố tình đã làm ô danh nữ chiến sĩ Сộng sản, vì lòng căm thù Сộng sản thâm căn cố đế bắt nguồn từ thân phận phản động của chính mình.

Tôi còn nhớ rõ buổi học đó, giọng nói của thầy Lý có chút run run và nước mắt thầy trào ra. Lối đọc của thầy đã bi kịch hóa sự can trường của người phụ nữ khi đối mặt với cái chết. Tôi chắc chắn rằng nó không chứa cụm từ như "run rẩy trong hoàn cảnh mà mình đối mặt." Tôi sẽ nói chuyện với bọn bạn cùng lớp của mình và thanh minh cho thầy. Tôi không phải đợi Bá Vương, vì nó tự chạy vào lớp và vẫy theo một lá cờ đỏ lớn, rồi thông báo, "Chúng tôi đang thành lập một tổ chức Hồng vệ binh mới, đội Hồng vệ binh Di sản Đó. Chỉ có con em sĩ quan cách mạng từ quân đội có thể tham gia. Tôi xin tuyên bố mình hoạt động độc lập khỏi lớp 85!"

"Được thôi, nếu đồng chí muốn bắt chước mấy bọn làm màu mè ở Bắc Kinh," tôi nói, “Tôi vừa đọc báo cáo của đồng chí về thầy Lý. Tôi e là trí nhớ của đồng chí có vấn đề." Bá Vương liền nổi xung và vẫy cờ hăng hơn, nó nói, "Những gì chúng tôi nhớ đều rõ ràng. Đồng chí nên tự kiểm tra về ý thức giai cấp của bản thân. Hay đồng chí muốn bảo vệ cho tên sĩ quan Quốc dân đảng phản động đó? Hay bởi vì đồng chí đang liếm giày cho giáo viên? Sẽ chẳng ai nghe lời đồng chí đâu!" Nói xong nó xoay người rồi sải bước đi ra ngoài.

Có lẽ Mỹ Hồ sẽ dễ thuyết phục hơn. Tôi đã tìm thấy nó đang mải mê thi thố với một vài đứa khác, xem ai có thể uống được nhiều nước nóng nhất. Chúng nó ngồi cởi trần dưới cái nắng thiêu đốt, ăn củ cải muối để làm dịu mồm giữa những ngụm nước nóng, lúc đó cái bụng của Mỹ Hồ tròn căng. Tôi hỏi nó rằng nó có thực sự nghe thầy Lý bôi nhọ nữ chiến sĩ Сộng sản không. Nó nhìn tôi lấm lét, "Thằng Bá Vương nói chúng ta không nên tỏ lòng thương xót với kẻ thù, nên tao đã ký tên. Nhưng thực sự tao chẳng nhớ đâu.". "Nếu vậy, mày nên đi với tao và gạch bỏ tên mày khỏi cái báo cáo,” tôi nói, "chúng ta không thể bịa ra mọi thứ, cho dù người ta tồi tệ đến đâu." Mỹ Hồ ngoan ngoãn theo tôi trở lại lớp học.

Vào cuối ngày, đội Hồng vệ binh Di sản Đỏ được thành lập, với trụ sở chính là một phòng học trống trơn. Tổ chức mới này đã thu hút thành viên từ gần như mọi lớp học trong trường. Viện Triều tham gia và được bầu làm phó chỉ huy. Mỉa mai thay, Bá Vương không được chấp nhận vì cấp bậc của bố nó quá thấp. Nó không thèm nói chuyện với bất cứ ai trong vài ngày. Sau đó, cay cú vì những đứa có gia đình quân đội kia đã loại bỏ nó, Bá Vương đã thành lập luôn một đội Hồng vệ binh của riêng mình, được gọi là Lực lượng Hồng vệ binh Vệ Mao Lâm (bảo vệ Mao Trạch Đông và Lâm Bưu). Mười đứa bạn cùng lớp của chúng tôi đã tham gia vào nhóm này.

Nhóm Cách mạng Văn hóa của lớp chúng tôi đang trên đà tan rã quyền lực. Chúng tôi không thể làm gì để ngăn chặn sự ly khai của Bá Vương, hoặc ngăn cản những đứa khác bắt chước theo. Tùng Phương thành lập nhóm Hồng vệ binh Vĩnh Hồng, còn Tào Lan thành lập nhóm Hồng vệ binh Học thuyết Mao Trạch Đông. Cuối cùng, Song Căn và tôi đã thu thập những đứa bị bỏ lại và thành lập Tổ Hồng vệ binh Trung Nam Hải, được đặt tên theo địa điểm ở Bắc Kinh, nơi Ủy ban Trung ương và các thành viên Quốc vụ viện đang sinh sống. Chúng tôi có hơn chục thành viên, bao gồm cả Nhị Xú, cô nàng tomboy Hoán Thiên và một vài người khác đã bị loại khỏi Hồng vệ binh ban đầu.

Hoán Thiên vui mừng được tham gia vào tổ chức của chúng tôi. Nguồn gốc nông dân trung lưu đã chống lại chị ấy kể từ khi bắt đầu Cách mạng Văn hóa. Bá Vương thậm chí còn buộc tội chị ấy có cái tên phản cách mạng, nói rằng rằng "hoán đổi thiên hạ" là có ý muốn lật đổ xã hội mới. Tôi đã đến để thanh minh cho chị, chỉ ra rằng chị là một trong những học sinh lớn tuổi nhất trong lớp và đã từng ra đời ngay trước khi Quốc khánh vào năm 1949. Vậy có nghĩa là tên của Hoán Thiên là nhằm tôn vinh sự xuất hiện không thể cản được của xã hội mới.

Chúng tôi đặt trụ sở chính của Tổ Trung Nam Hải tại một phòng ký túc xá không có người ở. Mất vài ngày để chúng tôi thực hiện nhiệm vụ cơ cấu tổ chức. Đầu tiên, chúng tôi phải lập ra một bản tuyên ngôn thành lập của tổ. Nguyên tắc mà chúng tôi định đặt ra là, "Với tinh thần của Thông cáo Mười sáu điểm, chúng tôi mong kết nối với tất cả những người mong muốn theo Cách mạng, dưới ngọn cờ của tổ Hồng vệ binh Trung Nam Hải, nhằm tiến hành Cách mạng Văn hóa triệt để." Xong cái tuyên ngôn rồi, chúng tôi khâu những chiếc băng tay màu đỏ mới với dòng chữ nhuộm vàng, và xin một lá cờ đỏ kèm phù hiệu thêu bằng lụa của Ủy ban Tiến hành. Không có nhóm ly khai nào dám tuyên bố dứt khỏi Ủy ban, vì ai ai cũng đều cần đến hậu cần và ủng hộ tài chính.

Bước tiếp theo của chúng tôi là phát triển một kế hoạch hành động hiệu quả, nhằm mang lại thanh danh và những tân binh mới. Hoán Thiên đề xuất hiện ý tưởng hay nhất. Chị nghe phong phanh rằng có tiếng động lạ giống như tín hiệu điện đàm không dây, thường phát lên ở xưởng mộc trong trường học. "Hay chúng ta cùng theo dõi ông thợ mộc Trương?" Chị đề xuất. "Nếu chúng ta có thể bắt quả tang ông ta ở điểm nào đó, tổ chúng ta sẽ nổi tiếng toàn quốc."

Thợ mộc Trương, một ông chú tính tình thân thiện ở độ tuổi năm mươi, sống và làm việc trong một xưởng mộc hầm hố ở phía sau trụ sở chính của chúng tôi. Chú ấy sửa chữa bàn ghế và làm đồ nội thất. Hồi các lớp học bị gián đoạn và tất cả chúng tôi tham gia vào cuộc cách mạng, không có ai giám sát các hoạt động của chú ấy. Có khi ông chú này lợi dụng thời gian này tiến hành các thủ đoạn phản cách mạng. Chúng tôi đã thông qua kế hoạch của chị Hoán Thiên bằng sự nhất trí không có phiếu bầu.

Trong vài ngày sau, chúng tôi theo dõi chú thợ mộc Trương từ cửa sổ phía sau của trụ sở của chúng tôi, nhưng không có hoạt động đáng ngờ. Chúng tôi quyết định tiến hành một nhiệm vụ trinh sát vào ban đêm. Sau nửa đêm, Song Căn, Hoán Thiên, và tôi trèo thang lên nóc xưởng mộc, mở nắp giếng trời, thả một thang dây xuống và trườn vào trong xưởng. Phòng ngủ của chú Trương ở cuối hành lang. Chúng tôi thử cửa và thấy nó đã được chốt. "Chị cá là tên này đang đánh điện báo trên giường." Chị Hoán Thiên thì thầm.

Đồng ý là ông chú Trương có thể hoảng sợ và chống trả quyết liệt nếu chúng tôi bắt quả tang, chúng tôi tìm cách khác. Một cách trong số đó là trèo vào cái khoang giữa trần nhà và xà nhà, như cách mà chúng tôi sửa hệ thống dây điện trong lớp học của mình. Chúng tôi quay trở lại hành lang, thử các cánh cửa khác cho đến khi chúng tôi tìm thấy một cái không có khóa. Song Căn đứng lên bàn, tháo một tấm trần và giúp tôi với chị Hoán Thiên trèo vào trong lỗ. Nó sẽ đứng gác ở ngoài phòng chú thợ mộc Trương. Nếu có biến, nó có thể xông vào để cứu giúp chúng tôi.

Chị Hoán Thiên và tôi bò trên trần nhà tới chỗ phòng của chú Trương. Chúng tôi nằm sấp, ép tai vào những tấm ván, và cố gắng nhìn qua các vết nứt. Chúng tôi không thể nhìn và nghe thấy gì, nhưng chúng tôi cảm thấy có không khí ấm áp và ngửi thấy mùi sinh hoạt của người ở bên dưới. Chúng tôi nằm dưới xà nhà trong một thời gian dài, đến khi chúng tôi đang dự tính rút lui, thì có nghe thấy tiếng sột soạt. "Hắn đang gửi một bức điện đến Đài Loan!" Hoán Thiên thì thầm đầy hào hứng. Sau đó là tiếng đái vào bô.

Tiếng sột soạt lại tiếp tục. "Lần này, hắn thực sự đánh điện tín đấy!” chị Hoán Thiên nói. Nhiều tiếng sột soạt hơn, và sau đó là một loạt âm thanh cót két, như thể chiếc giường đang di chuyển qua lại. Chúng tôi nín thở và lắng nghe. Đột nhiên, có một loạt tiếng ồn, theo sau là một hỗn hợp tiếng rên rỉ và thở hổn hển xen lẫn nhau. Nó nghe giống như ai đó đang phải chịu đau đớn. Nghe giống như các âm thanh trên được phát bởi một người phụ nữ. "Chuyện gì đang xảy ra? Người phụ nữ kia đến từ đâu?" Hoán Thiên thì thầm. "Một phụ nữ gián điệp đến để liên lạc với hắn ta à?" Tôi nhéo nhẹ vào chị, yêu cầu im lặng. Lại có một tiếng rên rỉ khác, lần này là giọng của một người đàn ông. Họ có thể làm gì ở dưới đó ở giữa của đêm?

Trong nháy mắt, tôi nghĩ đến một đoạn trong tiểu thuyết cách mạng Hoa anh thảo, mô tả một cảnh ngoại tình phản cách mạng. Ra là vậy! Tôi có thể cảm thấy máu đang dồn lên mặt mình.

Vài tiếng thì thầm khe khẽ phát ra từ bên dưới. "Họ đang làm gì?" Hoán Thiên hỏi. Tôi thì thầm với chị ấy, "Họ đang làm tình." Hoán Thiên giật mình, làm cho tấm trần kêu cót két. "Trên trần nhà sao lại có tiếng ồn thế?", người phụ nữ bên dưới hỏi. "Chắc là lũ chuột đấy," người đàn ông nói. "Cái xưởng mộc này có rất nhiều chuột. Ngày mai, anh sẽ xin một ít thuốc chuột để giết chúng. Em có mệt không? Anh thì có, vì mai còn phải làm một cái tủ cho Ủy ban Tiến hành, còn em phải trở về làng. Đi ngủ thôi."

Hoán Thiên và tôi không dám di chuyển cho đến khi chúng tôi nghe rõ tiếng chú Trương ngáy. Sau đó, chúng tôi bò trở lại cái chỗ mà chúng tôi đã leo vào. Song Căn đang gật gà ngồi bên dưới. "Tôi gần như ngủ luôn đấy," nó nói. "Tôi đã đợi ngoài cửa và không thấy có biến gì, vậy nên tôi đã trở lại đây. Hai ông bà này đã khám phá ra gì chưa?" "À, ông chú của chúng ta đang đụ một người phụ nữ vào lúc nửa đêm!" Hoán Thiên trả lời. "Thật đấy? Ước gì em cũng trèo lên hóng cùng chị. Trước em thường rình nghe các cặp vợ chồng mới cưới ở nông thôn mà chẳng đi đến đâu. Vụ này đúng là đáng với công sức bỏ ra mà!"

Chúng tôi mò mẫm đi đến cửa trước, mở chốt cửa và luồn ra ngoài. Khi chúng tôi trở lại trụ sở chính, Song Căn trêu rằng chúng tôi nên nhại lại những âm thanh đã nghe thấy. Thay vì trở về phòng ký túc xá của mình, chúng tôi ở trong trụ sở của mình và ngủ trên bàn ghế, sử dụng giấy đại tự báo làm chăn.

Sáng hôm sau, chúng tôi báo cáo tình hình với toàn tổ Trung Nam Hải về nhiệm vụ của mình. Mọi người chấp nhận rằng chú thợ mộc Trương không gửi điện tín đến Đài Loan. Câu hỏi bây giờ đặt ra, là liệu có nên điều tra thêm về đạo đức của chú ấy không. Chúng tôi quyết định rằng người phụ nữ đêm qua có lẽ là vợ, và ngay cả khi cô ấy không phải là vợ, vụ điều tra không có ý nghĩa đấu tranh chính trị là mấy, vì vậy chúng tôi đã bỏ qua.

Sau cuộc họp, tôi đến văn phòng của Ủy ban Tiến hành để lấy tấm lụa mà chúng tôi đã đặt trước, để làm lá cờ cho tổ chức của mình. Thầy chủ tịch Đặng đã biến thành một mậu dịch viên cho tất cả các nhóm Hồng vệ binh nhỏ, mọc lên như nấm sau cơn mưa xuân. Thầy là một người dễ gần và dường như không có thói để bụng. Thầy đo sáu mét lụa đỏ bằng một cây thước gỗ, xé ra khỏi khung cắt và đưa cho tôi với nụ cười: "Chúc các em thành công rực rỡ!”​
 
Sửa lần cuối:
15. LỜI HỒI ÂM CỦA MỘT PHẦN TỬ CÁCH MẠNG

Một tờ rơi được dán trên bảng đen của lớp học, tiết lộ điều tôi muốn che giấu đi nhất. Ai đó đã vẽ một vòng tròn bằng phấn quanh nó, với một mũi tên và dòng chữ đi kèm: "Hãy xem những tin tức mới nhất từ Linh Thọ." Tôi không cần phải đọc kỹ hơn để xem cái truyền đơn nói gì. Tôi đã hình dung ra kẻ nào dám đặt nó ở đó. Một vài đứa bạn cùng lớp của tôi đang ngồi trên bàn học, đọc các hồ sơ về giáo viên và không một ai nhìn tôi. Một sự im lặng bí bách bao trùm toàn lớp học.

Tôi đi bộ đến cái ao đằng sau trường, rồi ngồi xuống dưới một gốc liễu và viết một lá thư cho bố tôi. Bức thư không bắt đầu với "Kính gửi bố." Trong hoàn cảnh này, văn phong trung lập có khi tốt hơn.

Kính gửi đồng chí Cao Sơn Quế,

Con đã không gặp bố được vài tháng rồi. Lần trước khi con ở nhà, bố đang đi thị sát ở nông thôn.


Nhiều thay đổi đã diễn ra tại trường của con. Bọn con đã đến Bắc Kinh để gặp Mao Chủ tịch vào tháng 9, nhưng tiếc là đã bỏ lỡ cơ hội. Bọn con cũng đã dành một tháng để học cách gieo lúa mì, riêng con đã học cách sử dụng một cái bừa trong khi cầm đuôi con la. Con thực sự thích các hoạt động làm nông như vậy. Bố đã luôn nói với con nên học hỏi từ những người nông dân, và con rất vui để báo rằng con đã làm theo như lời bố nói.

Gần đây, những tờ truyền đơn từ Linh Thọ đã tìm được đường đến Chính Định. Chúng đã gây ra một số xáo trộn trong trường học của bọn con. Riêng con cảm thấy rằng một áp lực vô hình đang cố đẩy con ra khỏi đường lối cách mạng, nên con buộc phải đưa ra lựa chọn.

Con có một câu hỏi muốn hỏi bố, một câu hỏi rất quan trọng cho tương lai chính trị của con. Bố vẫn tin rằng bố là một người theo cách mạng? Hãy cho con một câu trả lời chắc chắn, là có hoặc không.

Nhân danh Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản!

Kiến Hoa.


Tôi ra chòi gác cổng trường để mua một phong bì và con tem, rồi bỏ lá thư vào hộp thư bên ngoài Cổng Nam. Lúc đó tôi đã sẵn sàng tâm lý để bị xa lánh trước toàn trường.

Tuy nhiên, mọi việc lại diễn ra theo chiều đã có lợi cho tôi trong vài ngày tới, khiến tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Phe chống đối trong chính quyền quận Chính Định, được truyền cảm hứng bởi sự tích cực của Hồng vệ binh của trường trung học số 1, đã dán lên các đại tự báo tố cáo lãnh đạo quận. Ngoài ra, họ tuyên bố rằng các nhà lãnh đạo quận đã hợp tác với cựu Bí thư thành ủy Chính Định, Hán Vinh, trong việc bức hại bố tôi, người mà họ mô tả là "Cán bộ cách mạng Cao Sơn Quế." Bài tố cáo này xuất hiện khắp Chính Định, và bọn bạn của tôi chắc chắn không bỏ qua nó. Thậm chí thằng Bá Vương còn không có ý muốn ngăn cấm tôi tham gia Cách mạng Văn hóa.

Chúng tôi đã hoàn thành việc xem xét hồ sơ của giáo viên và gửi nộp cho Ủy ban Tiến hành. Theo kết quả đánh giá lại, hai phần ba số giảng viên được phân loại là "tương đối tốt." Phần còn lại vẫn là phần tử xấu, bao gồm cả hai thầy Lý và thầy Thẩm. Những tay Hồng vệ binh manh động nhất lại bắt đầu đấu tố những giáo viên kém may mắn này một lần nữa.

Nhóm Hồng vệ binh Vệ Mao Lâm của Bá Vương thẩm vấn hai thầy ít nhất một lần trong ngày, cho đến khi có tai nạn xảy ra. Theo lời kể của Bá Vương, mấy đứa thẩm vấn đã tát vào mặt thầy Thẩm vài lần, rồi thầy tự dưng lao vào chúng như một kẻ điên. Có đứa, không biết chính xác là ai, đã đâm một mũi lao vào thầy Thẩm để tự vệ, thầy cũng vì đó mà vong mạng.

Bọn Vệ Mao Lâm đã phải báo cáo vụ việc cho chủ tịch Đặng. Thầy nói rằng sẽ tiến hành một điều tra, nhưng thực tế nó không bao giờ diễn ra. Thầy ấy thậm chí còn không thông báo công khai. Thay vào đó, thi thể thầy Thẩm được lặng lẽ đưa đến khu mộ bên dưới bức tường thành cổ phía bắc, nơi chôn cất hiệu phó Lâm Thịnh và ông anh học sinh chết đuối năm nào. Không ai muốn dính dáng đến một tên gián điệp đã chết.

Không khí ở trường có vẻ ngột ngạt hơn. Tôi chỉ muốn được đi xa. Báo chí đăng đầy các tin tức, về Hồng vệ binh đi khắp cả nước để trao đổi kinh nghiệm về cách mạng. Thậm chí còn có một thuật ngữ mới đặc biệt cho chuyến đi này: “Quán liên”. Nhóm Cách mạng Văn hóa trung ương đã tạo điều kiện cho các chuyến quán liên trên diện rộng, thậm chí ra sắc lệnh rằng Hồng vệ binh có thể đi tàu hỏa miễn phí.

Nhóm Hồng vệ binh Di sản Đỏ là nhóm đầu tiên trong trường lên đường làm chuyến quán liên. Anh Vệ Hoa bảo với tôi rằng anh sẽ đi chuyến quán liên với ba đồng đội từ tổ Hồng Vệ Binh của mình, mang tên Lữ đoàn Đỏ. Họ dự định hướng đến tỉnh Tứ Xuyên. Tôi chưa bao giờ đi quá phía nam Thạch Gia Trang. Nói chính xác hơn, tôi chưa bao giờ đi quá phía nam, qua nhà máy thủy tinh ở Thạch Gia Trang, nơi chúng tôi từng đi thực địa. Tôi nói với anh Vệ Hoa rằng tôi cũng đang nghĩ đến việc lên đường. Anh khuyên tôi để tìm một vài người bạn đồng hành và đi theo một nhóm nhỏ.

Tôi biết rằng nếu tôi nói về hành trình quán liên của mình ở tổ Trung Nam Hải, mọi người đều muốn đi cùng. Vì vậy, tôi đã gặp riêng Song Căn và yêu cầu nó đi với tôi. Chúng tôi đã đi đến thầy chủ tịch Đặng để nhận thư giới thiệu đến các nơi tiếp nhận Hồng vệ binh ở tất cả các thành phố mà chúng tôi muốn đến. Chúng tôi cũng thuyết phục thầy đưa cho chúng tôi một số lá thư, trong là giấy trắng có đóng sẵn dấu của Ủy ban Tiến hành, phòng khi sử dụng trong trường hợp khẩn cấp.

Kể từ khi thầy Thẩm qua đời, tôi không còn ưa thích ông thầy chủ tịch Đặng nữa. Khi tôi hỏi thầy ấy rằng, việc điều tra trường hợp của thầy Thẩm sẽ đi đến đâu, thầy chỉ ném cho tôi một cái nhìn nhẹ tênh và nói, "Thông cáo Mười sáu điểm đã nói rất rõ ràng, rằng trong mọi người tham gia cách mạng không tránh khỏi phạm sai lầm. Nếu chúng ta cặn kẽ quá mức, chính chúng ta cũng sẽ phạm sai lầm."

Một ngày trước khi Song Căn và tôi chuẩn bị khởi hành, một bức thư gửi cho tôi bằng nét chữ thô kệch của bố đã đến. Bố hiếm khi viết thư cho tôi, và những lá thư của ông ấy chỉ là dài vài ba dòng. Nhưng cái này dài tận ba trang.

Kiến Hoa à,

Bố từ quê ra thì nhận được thư của con. Vụ lúa mì mùa đông năm nay được gieo cấy rất tốt, nên điều đó làm bố rất vui, mặc dù ngoài kia còn nhiều khó khăn và hỗn loạn.

Bố đã là trưởng huyện Linh Thọ được 5 năm rồi. Mối quan hệ của bố với một số nông dân ở huyện này có từ tận thời kháng chiến chống Nhật. Khu vực miền núi này là một phần của ranh giới tự nhiên giữa Sơn Tây, Sát Cáp Nhĩ và Hà Bắc, là địa bàn của tướng Nhiếp Vinh Trân. Trong những ngày đó, nhân dân nơi đây đã ủng hộ bộ đội và du kích của ta bằng mọi thứ, từ thức ăn mà họ dọn ra khỏi bàn, cho đến mạng sống của những người con ngoan cường nhất trong nhà. Bọn bố đã chiến đấu trong cùng một chiến lũy để chống lại giặc Nhật. Bố và đồng đội đã hứa với họ rằng khi phe ta giành chiến thắng và kiến thiết nên một Trung Quốc mới, họ sẽ có một cuộc sống tốt hơn nhiều.

Cuộc sống ở đây tuy đã được cải thiện rất nhiều, nhưng chúng ta còn lâu mới đạt được mục tiêu của mình. Nhiều người còn không đủ ăn, và điều này đang làm bố trăn trở. Bố cảm thấy chúng ta có nghĩa vụ phải thực hiện lời hứa của mình xưa kia, để họ có một cuộc sống tốt hơn. Để cho thấy điều này có thể được thực hiện như thế nào, bố và các đông nghiệp đang thiết lập một mô hình nông nghiệp sâu trong núi. Nơi này được đặt tên là sân gạch. Mô hình này đang được triển khai với kết quả tốt.

Chừng nào bố còn là người đứng đầu huyện này, bố sẽ phải cố gắng hết sức để giúp đỡ người dân. Bố không thể chịu được khi thấy mọi người đói, nên vì thế mà tôi luôn mải mê với công việc ở nông thôn, đôi khi đến mức lơ là những việc khác. Linh Thọ là một huyện nông nghiệp, và trọng tâm của nó là ở nông thôn.

Còn phong trào Cách mạng Văn hóa đang diễn ra khắp cả nước, không chỉ riêng bố, mà nhiều người khác cũng thấy khó hiểu. Tại sao nó lại xảy ra khi chúng ta vẫn còn đang vật lộn để phục hồi sau Ba Năm Khó Khăn? Những ngày đó, mỗi khi nhìn thấy khuôn mặt hốc hác của các con, bố lại cảm thấy áy náy vì mình đã không làm tròn trách nhiệm làm cha. Nhưng bố thậm chí còn cảm thấy tội lỗi hơn khi không có khả năng giúp người dân trong huyện của mình có một bữa ăn đủ no. Cuối cùng, chúng ta đã cố gắng vượt qua những gian khổ trường kỳ, do bọn xét lại Liên Xô, bọn đế quốc và bọn phản động, thiên tai, cũng như sự tự kiêu của chính chúng ta gây ra. Bây giờ chúng ta nên đi theo chiều gió thuận, để cải thiện nền kinh tế của chính mình và thoát khỏi đói nghèo.

Mặc dù phong trào này nằm ngoài tầm hiểu biết của bố, nhưng với tư cách là một Đảng viên kiên trung, bố phải tuân theo sự lãnh đạo của Ủy ban Trung ương. Các đồng chí lãnh đạo khác đã giám sát giai đoạn đầu của phong trào tại trường Trung học Linh Thọ, vì bố vẫn ở nông thôn. Nhưng bố hiện đang là Bí thư Đảng ủy, vì vậy bố sẽ chịu trách nhiệm về bất cứ điều gì sai phạm.

Bố hiểu cái cảm giác lo lắng mà điều này đã gây ra cho các anh em của con. Bố và các đồng chí khác đã trải qua nhiều phong trào chính trị khác nhau, nhưng tầm ảnh hưởng của cái Cách mạng Văn hóa này làm bọn bố choáng váng. Con đã hỏi bố rằng liệu bố vẫn tin tưởng vào cách mạng, đúng không? Bố có thể đảm bảo với con rằng, bố luôn đã, đang, và sẽ trung thành với cách mạng. Bố đã cống hiến đời mình cho sự nghiệp cách mạng. Bố gia nhập Đảng khi còn mười chín tuổi, và thành lập chi bộ Đảng tại làng của mình. Bố ngừng dạy học để tham gia du kích đánh giặc Nhật. Bố luôn tin vào chủ nghĩa Сộng sản, vào sự lãnh đạo của Đảng, và Mao Chủ tịch. Vậy câu trà lời là Có, bố tin rằng mình vẫn trung thành với cách mạng. Bố chắc chắn rằng mình không phải là một người ủng hộ chủ nghĩa tư bản. Bản thân bố đã chứng kiến những gì chủ nghĩa tư bản đem lại cho Trung Quốc trước Giải phóng. Làm sao mà bố có thể ưa chủ nghĩa tư bản hơn chủ nghĩa xã hội được? Ngược lại, bố luôn ủng hộ chủ nghĩa xã hội, và sẽ luôn như vậy.

Bố mong rằng con sẽ có niềm tin ở bố. Tuy nhiên, nếu vì hiện tại con đang nghi ngờ rằng bố là một người ủng hộ tư bản, như một số kẻ ngoài kia đang cáo buộc, con có thể từ bỏ bố. Bố sẽ không nói một lời đâu.


Bố của con.

Lần này, bố viết giống như một người cha đang thực sự quan tâm đến con cái. Tôi gấp lá thư ngay ngắn lại và đặt nó giữa các trang nhật ký của mình.​
 
16. TRÊN ĐƯỜNG QUÁN LIÊN

Song Căn và tôi rời khỏi Tổ Trung Nam Hải của mình, chỉ để lại một ghi chú nói rằng chúng tôi hy vọng sẽ gặp mọi người trên đường, và bước ra khỏi cổng nam của trường trước bình minh, với túi ngủ buộc sau lưng, băng tay Hồng vệ binh trên tay áo và huy hiệu Mao Chủ tịch cài trên ngực. Tại nhà ga xe lửa, chúng tôi dùng lá thư giới thiệu của mình để đến Vũ Hán. Mỗi chỗ ngồi trong tàu cao tốc hướng nam đã có người ngồi, và các Hồng vệ binh ngồi trên túi ngủ của họ chất đầy lối đi dọc tàu. Song Căn và tôi yên vị ở cạnh cánh cửa phía cuối một toa tàu. Chúng tôi áp mặt vào khung cửa sổ, nhìn ra tấm thảm xanh dài vô tận của cánh đồng lúa mì.

Thỉnh thoảng, đoàn tàu của chúng tôi phải dừng lại hoặc giảm tốc độ để nhường đường cho các chuyến tàu chở hàng đi đến cửa khẩu Hữu Nghị trên Biên giới Việt-Trung. Các toa xe được bao phủ bởi các khẩu hiệu sơn trắng- "Đả đảo chủ nghĩa đế quốc Mỹ!" "Đả đảo chủ nghĩa xét lại của Liên Xô!" "Đả đảo Johnson!" "Đả đảo Brezhnev và Kosygin!" Những toa chất đầy xe tải chở quân, xe tăng và súng phòng không cho Việt Nam. Chúng tôi có thể nhận ra một số xe tải là của Liên Xô bởi khoang lái vuông vức của chúng. Bất chấp những khác biệt về ý thức hệ, chúng tôi đã đồng ý để cho Liên Xô gửi viện trợ cho Việt Nam qua lãnh thổ tổ quốc.

Tôi đã đọc chín bức thư ngỏ của Ủy ban Trung ương gửi cho chính phủ Liên Xô nhiều lần. Các bức thư đều chỉ trích về học thuyết chung sống hòa bình, quá độ hòa bình, đàm phán hòa bình với các nước đế quốc, và giảm hỗ trợ cho các nước bị áp bức. Tôi cũng biết về khủng hoảng tên lửa Cuba, lúc đó Liên Xô đã lùi bước trước bọn đế quốc Mỹ. Tôi đã nghi ngờ về sự ủng hộ chân thành của Liên Xô đối với người Việt Nam.

Song Căn cũng thế. Nó đã nghe nói rằng Liên Xô viện trợ các trang thiết bị xuống cấp cho phía Việt Nam, và họ bí mật hợp tác với Mỹ đế quốc bằng cách chỉ điểm cho B-52 tấn công các chốt phòng không có cố vấn Trung Quốc ở Việt Nam. Người ta nói rằng Bắc Việt Nam đã cố gắng giữ những người đồng chí Nga và những người đồng chí Trung Quốc xa nhau, bởi vì hai bên thường đánh nhau mỗi khi gặp mặt.

Tôi nhớ lại những ngày mà Liên Xô từng là đồng minh lớn của chúng tôi. Ở trường tiểu học, tôi đã trao đổi thư từ với một người bạn qua thư ở Moscow tên là Natasha. Năm 1960, ngay trước khi cố vấn Liên Xô rời Trung Quốc, cô ấy đã ngừng viết thư trả lời tôi. "Tao đã từng mơ đến Moscow để xem Quảng trường Đỏ,” tôi nói với Song Căn. “Giờ thì không còn như thế nữa. Đó là nơi tao ghét nhất!" Song Căn nói rằng nó cũng nghĩ như vậy.

Chúng tôi ngủ quay lưng vào nhau. Khi trời sáng, chúng tôi thấy mình đang đi qua những ngọn đồi thoai thoải. Đất đã chuyển từ đen sang đỏ, điều đó có nghĩa chúng tôi đã vượt qua sông Hoàng Hà trong đêm. Đến đầu giờ chiều, chúng tôi đến Hán Khẩu và Hán Dương, hai trong bộ ba khu đô thị của Vũ Hán. Tại đây, sông Hán đổ vào sông Dương Tử. Những bản đồ Trung Quốc mà chúng tôi hay vẽ trong các tiết học địa lý đã bày ra trước mắt. Khi đoàn tàu băng qua sông Dương Tử trên cây cầu khổng lồ, bài thơ "Bơi lội" của Mao Chủ tịch được phổ nhạc, vang lên trên loa phóng thanh: “Một cây cầu bắc qua nối liền hai bờ nam bắc, từ một vực thẳm sâu biến thành một đại lộ ...”

Tàu dừng ở Vũ Xương, khu đô thị còn lại ở Vũ Hán. Hồng vệ binh ở khắp mọi nơi, tấp nập qua lại các ga đường sắt và lấp đầy bên ngoài quảng trường. Văn phòng đón tiếp Hồng vệ binh của tỉnh đã gửi Song Căn và tôi đến một viện nghiên cứu nông nghiệp ở ngoại ô thành phố, nơi chúng tôi tham gia cùng hàng nghìn du khách khác, ngồi bệt trên thảm nghe diễn thuyết trong khán phòng. Mọi người xếp hàng dài đến phòng ăn vào bữa tối, cỡ chắc gần một cây số, nhưng di chuyển nhanh như một dây chuyền nhà máy.

Quyết tâm đặt mục đích học hỏi cách mạng thay vì một chuyến du lịch đơn thuần, Song Căn và tôi đã mua một chồng giấy trắng để sao chép đại tự báo, và đến thăm hai trường đại học lớn của Vũ Hán, Đại học Hồ Bắc, tại trung tâm thành phố Vũ Xương và Đại học Vũ Hán, nơi có khuôn viên nghiêm trang, với cây cối trải dài và nằm trên một sườn đồi ở ngoại ô. Chúng tôi đã nghiên cứu những chi tiết thú vị về tội ác của các quan chức hàng đầu của tỉnh Hồ Bắc. Một áp phích tố cáo bí thư tỉnh ủy có quan hệ bất chính với một diễn viên nhào lộn nổi tiếng, có thân hình linh hoạt đến mức cô ấy có thể cuộn mình như một con rắn.

Khi cổ tay bắt đầu mỏi vì chép quá nhiều, chúng tôi đã đi đến cầu vượt sông Dương Tử và nhìn xuống những chiếc thuyền buồm và tàu hơi nước. Đây là cây cầu đầu tiên được xây dựng trên sông Dương Tử, với sự giúp đỡ của các kỹ sư Liên Xô. Nó nối liền hai ngọn đồi đá ở hai bên của dòng sông, một bên gọi là đồi Rùa, bên kia là đồi Rắn. một dòng khác trong bài thơ “Bơi lội” của Mao Chủ tịch đã miêu tả cảnh tượng: “Rùa im, rắn ngủ, gió đẩy thuyền”.

Từ Vũ Hán, chúng tôi sẽ hướng đến Quảng Châu, có khí hậu cận nhiệt đới ở phương Nam xa xôi. Ở đó, tôi rất mong được ăn chuối và dứa. Đám đông Hồng vệ binh đang chờ đợi ngoài phòng đợi của ga tàu tuyến tốc hành Bắc Kinh - Quảng Châu chắc cũng vậy. Tàu đến trễ hai tiếng, và chật ních đến nỗi mọi người phải sử dụng các cửa sổ trên toa để lên và xuống tàu. Song Căn đã đẩy tôi qua một cửa sổ, và tôi kéo nó vào tàu bằng lối đó.

Không khí trong toa thật là bức bối. Các Hồng vệ binh đã chiếm mọi không gian có sẵn. Bên cạnh việc lấp kín chỗ ngồi, bọn họ còn ngồi vào lòng nhau, trên lưng ghế và trên những bàn nhỏ chia đôi chỗ ngồi. Một số ngồi xổm trong lối đi, một số khác nằm trên giá để hành lý, và thậm chí có người cố chen vào nhà vệ sinh. Song Căn và tôi bị kẹp giữa một số thanh niên, một trong số họ có hơi thở nặng mùi. Người soát vé không thể khóa cửa lại vì mọi người đang đứng trên bậc cửa. Ngoài ra, một thằng bé đã leo lên lên đầu tàu và không chịu xuống. Cảnh sát cuối cùng cũng dỗ được nó xuống.

Đoàn tàu bắt đầu rời ga với tiếng rít đinh tai nhức óc , và ngay lập tức dừng lại. "Thưa các hành khách, các đồng chí Hồng vệ binh," một giọng nói phát ra từ loa phóng thanh, "Toa tàu của chúng ta quá tải. Chúng tôi hy vọng một số đồng chí sẽ vì lợi ích của mọi người và bắt chuyến tàu tiếp theo." Các tiếp viên trên tàu đã mở khóa cửa nhưng không có ai xuống. Mọi người dường như đang đợi một sự thay đổi. "Các đồng chí, vị lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch của chúng ta đã dạy rằng nên học hỏi tinh thần Сộng sản của bác sĩ Norman Bethune, phải hết lòng vì người khác mà không tư lợi. Chúng ta nên thực hiện theo lời dạy của Mao Chủ tịch, hãy tự gánh lấy khó khăn, để mọi thứ trở nên dễ dàng cho người khác." Song Căn và tôi cùng nhìn nhau. Đây chắc chắn không phải là một chuyến đi thoải mái. Chúng tôi liền lách ra khỏi cửa. Những người khác cũng rời đi theo, lại chen chúc trên sân ga một lần nữa. Cuối cùng, con tàu phì phò nhả khói và ra khỏi nhà ga.

Chuyến tàu tiếp theo đến Quảng Châu khởi hành lúc nửa đêm và có lẽ sẽ đông đúc như chuyến vừa rồi. Thay vì đó, chúng tôi quyết định đi tàu dọc theo sông Dương Tử để đến Nam Kinh. Chúng tôi đi phà từ Vũ Xương đến bến cảng Hán Khẩu và nhận hai vé đi tàu miễn phí. Hai đứa lên chiếc tàu Hồng Đông số 3 được thắp sáng rực rỡ vào tối hôm đó. Cuối cùng, chúng tôi phát hiện ra rằng vé của chúng tôi không giống nhau, tôi ở khoang hạng ba, trong khi Song Căn ở hạng năm, phía sau cùng của tàu. Cabin của tôi có tám giường, thường thì sẽ chứa mười sáu hành khách. Thực tế số khách hiện tại đang gấp ba lần số đó. Tôi sẽ phải chia sẻ giường dưới của mình cùng với một cặp vợ chồng trẻ đến trước. Ít ra đi thuyền vẫn thoải mái hơn nhiều so với tàu hỏa.

Tôi để túi ngủ của mình ở chân giường và đi xuống khoang hạng năm. Hàng trăm người đang nằm trên đệm rơm trên sàn. Không khí có mùi cá tanh trộn lẫn với mồ hôi. Song Căn không bận tâm về điều nhỏ nhặt đó, có chỗ để duỗi chân là đã đủ để nó vui. Khi tôi quay trở lại chỗ ngủ của mình, tôi thấy đôi vợ chồng trẻ đã ngủ say trong vòng tay của nhau, không chừa cho tôi một khoảng trống nào. Tôi trải túi ngủ của mình trên sàn và đi ngủ trong tiếng sóng vỗ vào mạn tàu.

Chúng tôi dành phần lớn thời gian của ngày hôm sau, để ngắm nhìn phong cảnh dọc dòng sông từ boong chính. Rạng sáng ngày kế tiếp, tàu của chúng tôi cập bến Nam Kinh. Sông ở đây rộng và bằng phẳng. Dòng sông, như một người lính mệt mỏi sau bao ngày trải qua một cuộc hành quân dài đằng đẵng, giờ chậm rãi chảy về phía đông.

Sau khi nhận chỗ nghỉ của mình, là một phòng học tại một trường tiểu học địa phương, chúng tôi đã đến Đại học Nam Kinh để đọc thêm về các đại tự báo. Kẻ ác ôn ở đây là bí thư thành ủy tỉnh Giang Tô, người bị buộc tội lập ra một nhóm theo chủ nghĩa xét lại và chống Đảng. Nhóm này có biệt danh là “Câu lạc bộ chuyên tận hưởng đêm hè mát mẻ”. Thị trưởng thành phố Nam Kinh, cũng bị cáo buộc là đã tham gia câu lạc bộ này. Các thành viên được cho là đã tụ tập vào ban đêm để tán gẫu trò chuyện, uống rượu và chơi bài. Các nhóm Hồng vệ binh từ Bắc Kinh và Thiên Tân ngồi ở trên các xe tải được lắp loa, tiến qua khuôn viên của trường đại học và qua trung tâm thành phố, khuyến khích lực lượng Hồng vệ binh địa phương lật đổ Tỉnh ủy và Đảng ủy thành phố. Dinh thự riêng của Tưởng Giới Thạch, nay là trụ sở của chính quyền tỉnh, đã bị Hồng vệ binh chiếm trọn lấy.

Điểm tham quan đầu tiên của chúng tôi là lăng Tôn Trung Sơn, vị lãnh tụ của cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911. Lăng được xây trên một đỉnh đồi, muốn lên phải qua một bậc thang dài. Nhìn lên trên vòm mái nhà, tôi ngạc nhiên khi thấy không ai che biểu tượng của lá cờ Quốc dân đảng, Thanh Thiên Bạch Nhật. Có vẻ như cuộc Cách mạng Văn hóa đã dừng lại ở dưới chân đồi. Các dòng chữ sơn trên tường phản đối sự bảo tồn dành cho một biểu tượng của người lãnh đạo Quốc dân Đảng, đã phủ kín các bức tường bằng đá cẩm thạch bao quanh lăng. “Tại sao ngôi mộ này vẫn giữ được vẻ uy nghi và trang hoàng như vậy, trong khi hàng vạn liệt sĩ cách mạng bị Quốc dân đảng giết hại tại Vũ Hoa Đài lại phải nằm trong bùn?”, trích một dòng chữ trên tường.

Vũ Hoa Đài, bên ngoài lối cổng vào phía nam của Nam Kinh, là điểm dừng tiếp theo của chúng tôi. Những cây phong trong sắc đỏ cuối thu bao phủ cả một dải đồi. Quốc dân đảng đã xử tử hơn hai trăm ngàn Đảng viên Сộng sản và những ai có cảm tình với Сộng sản ở đây. Bốn bức tường đá đánh dấu các chỗ mà đội xử bắn của Tưởng Giới Thạch đã bắn vào những người cách mạng. Những tấm áp phích dán trên cây cáo buộc Tỉnh ủy đã bỏ bê nơi này và kêu gọi một sự lật đổ.

Trong lúc men theo một con đường hẹp xuyên qua dưới tán cây, chúng tôi đến băng qua nhiều người đang khom lưng trên mặt đất để săn lùng "Vũ Hoa Thạch" – những viên sỏi nhiều màu, mà theo truyền thuyết địa phương kể lại, chúng đã theo những giọt mưa, rơi xuống từ bầu trời. Người ta nói rằng mỗi nhà ở Nam Kinh đều có ít nhất một âu chứa đầy những viên sỏi này. Thủ tướng Chu Ân Lai đã nhặt đá cuội để thư giãn, khi ở Nam Kinh để đàm phán với Quốc Dân Đảng vào cuối những năm 1940. Bây giờ, các Hồng vệ binh sử dụng chúng để tạo thành các khẩu hiệu và biểu ngữ trên sườn đồi. Một người đã viết một bài thơ bằng đá cuội, về những cây phong được nhuộm đỏ bằng máu liệt sĩ. Song Căn và tôi đã lấy một vài viên sỏi cho mình và mang chúng theo về trường tiểu học.​
 
Sửa lần cuối:
16. TRÊN ĐƯỜNG QUÁN LIÊN (tiếp)

Một nhóm học sinh trung học từ Bắc Kinh đã trú lại cùng chỗ chúng tôi. Một buổi tối, một người trong số họ khuyên chúng tôi nên đến thăm càng nhiều thành phố càng tốt trước khi quá muộn, bởi vì Nhóm trù bị Cách mạng Văn hóa Trung ương đã ban hành một chỉ thị mới, nhằm kết thúc chuyến quán liên bằng tàu hỏa và thuyền. Chưa có ai từng nghe nói về một quyết định như vậy, nhưng người thiếu niên Bắc Kinh khẳng định đó là sự thực.

"Thật là một chỉ thị vớ vấn!" Tôi buột miệng. Đứa từ Bắc Kinh liền nắm lấy cổ áo của tôi. "Mày nói gì cơ? Mày dám bảo chỉ thị từ Trung ương là vớ vẩn?", nó gằn giọng. "Đánh chết nó đi, đánh chết nó đi!", một số đứa trong bè lũ của nó a dua theo. "Thằng này dám bôi nhọ Trung ương Đảng!"

Song Căn liền liều lĩnh thách thức chúng: "Chúng mày thử đánh nó xem! Nó xuất thân từ một gia đình bần cố nông đấy.”

Đứa Bắc Kinh kia thôi nắm cổ áo rồi xô ngã tôi xuống. Khi nó và bè lũ rời đi, một thiếu niên khác từ Bắc Kinh cảnh báo tôi nên cẩn thận hơn, vì bọn này đã đánh chết một cậu bé vì đã nói điều gì đó mà chúng coi là phản cách mạng. Song Căn và tôi quyết định rời đi Thượng Hải vào ngày hôm sau. Tuy nhiên, trước sự thất vọng của chúng tôi, số lượng người đi quán liên đã tăng lên rất nhiều, nên sang tận tuần sau chúng tôi mới có thể lấy được vé. Chúng tôi lang thang khắp nhà ga và bến tàu để tìm kiếm những ai muốn trao đổi vé. Mọi người chúng tôi gặp đều háo hức, chỉ muốn đến những điểm đến mới.

Song Căn gợi ý chúng tôi trà trộn đội ngũ Hồng vệ binh đang chờ đợi để lên tàu đi Thượng Hải. "Có rất nhiều người đang chờ đợi, nên nhân viên soát vé không thể kiểm tra hết được đâu," nó nói. "Chúng ta có thể may mắn lọt qua được." Tôi nghi ngờ về kế hoạch của nó. Hồng vệ binh được cho là phải giữ hạnh kiểm tốt, thật là tai tiếng nếu như hành vi trốn vé của chúng tôi bị bắt quả tang. Song Căn nói với tôi rằng đừng có rụt rè như vậy. "Mày phải biết những mánh khóe này vào những lúc đi du lịch xa nhà," nó nói.

Vì vậy, chúng tôi đã hòa mình vào hàng người dài trên sân ga để đón chuyến tàu đến Thượng Hải. Chúng tôi cứ đứng đó chờ đợi mãi. Cảm thấy bồn chồn, tôi nhờ Song Căn giữ chỗ của tôi và đi ra quảng trường, nơi có đội Hồng vệ binh địa phương buôn bán huy hiệu Mao Chủ tịch. Một thanh niên đề nghị đổi lấy một huy hiệu mạ vàng lớn cho hai cái nhỏ. Háo hức, tôi đưa cho anh ấy hai huy hiệu tôi đã nhận được ở Bắc Kinh. Bây giờ tôi đã có hai cái huy hiệu, một lớn một nhỏ y như thầy chủ tịch Đặng đang sở hữu. Đi giữa những sạp hàng hóa, tôi dừng lại để chiêm ngưỡng một chiếc huy hiệu lớn có vẻ mới được thiết kế, gồm một huy hiệu nhỏ màu đỏ khảm trên ngôi sao vàng năm cánh. Người chủ sạp nói giá của nó là mười huy hiệu nhỏ, và đó là một điều không thể đối với tôi.

Khi tôi trở lại sân ga, Song Căn nhìn tôi vẻ bực bội. Khi tôi kể lại với nó rằng tôi vừa ra trao đổi huy hiệu của Mao Chủ tịch, nó thậm chí còn tức giận hơn. "Mày thật đúng là một gánh nặng," nó nói, "Tao thà đi quán liên một mình còn hơn." Tôi kinh ngạc. Những ngày qua khi chúng tôi đi cùng với nhau, chẳng có lấy một lần cãi nhau. "Gánh nặng? Tao dựa vào mày bao giờ?" Tôi hỏi, trong đầu tôi tự nhiên lóe lên lúc nó đã cứu tôi khỏi bị đánh ngày hôm trước. Song Căn trả lời, "Được thôi. Nếu mày không cần tao, tao cũng chả cần. Tao sẽ đi một mình."

"Đây!" Tôi lấy một trong những lá thư giới thiệu còn trống ra khỏi cuốn nhật ký của tôi. "Hãy tự điền vào đây và đi bất cứ nơi nào mày muốn." Song Căn cầm bức thư và rời đi mà không nhìn lại. Nó nhanh chóng khuất trong đám đông. Niềm tự kiêu của tôi đã ngăn tôi đuổi theo nó. Từ giờ trở đi, tôi sẽ tiếp tục hành trình của mình một mình.

Đoàn tàu cuối cùng đã bắt đầu di chuyển. Tôi chìa tấm vé của mình ra với bên in ngày lên tàu úp mặt xuống. Tay soát vé thậm chí không nhìn vào nó. Trên đường ray bên cạnh là một đoàn tàu chở hàng dài đến nỗi tôi không thể nhìn thấy toa cuối của nó. Tôi leo lên một toa xe, ngồi xuống sàn nhà, và dựa vào túi ngủ của mình, cảm thấy mệt mỏi kinh khủng. Cánh cửa thép khép lại, không gian trong xe chìm vào vào bóng tối và đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh. Thi thoảng nó dừng lại bất chợt trong đêm để nhường đường cho tàu khách. Tại mỗi điểm dừng, các thanh thiếu niên thường nhảy khỏi toa để hít khí trời cho đỡ bức bối.

Đoàn tàu đến Thượng Hải vào sáng sớm hôm sau. Tôi đi theo dòng người tấp nập trên phố Nam Kinh. Cửa kính ám màu khói từ những tòa nhà cao tầng ở hai bên đường khiến cho tôi cảm thấy rằng mình như đang cuốc bộ qua một hẻm núi. Các đại tự báo trên đường phố tố cáo thị trưởng thành phố và bí thư Thành ủy là những người theo chủ nghĩa xét lại, phản cách mạng và theo tư bản. Một áp phích báo cáo rằng các công nhân đã cướp một chuyến tàu đến Bắc Kinh để tố cáo về các cấp lãnh đạo thành phố. Các công nhân khác đã dừng đoàn tàu bằng cách nằm xuống đường ray. Một cuộc ẩu đả đã xảy ra sau đó và một số người đã thiệt mạng.

Ở cuối đường Nam Kinh, tôi đứng trên bờ nhìn xuống sông Hoàng Phố và ngắm những con tàu trong cảng, là nơi mà tàu chiến nước ngoài đã từng cập bến. Trong vài ngày sau đó, tôi đi khắp thành phố với vé xe buýt miễn phí, thăm quan các nhà máy và tòa triển lãm. Chỗ ở của tôi ở Thượng Hải là một nơi khá cao cấp, vượt xa so với những nơi khác mà tôi đã từng ở lại. Tôi chia sẻ phòng mình tại một đồn công an với các học sinh từ Thiên Tân và một giáo viên từ tỉnh Giang Tô. Chúng tôi có những chiếc giường thật sự, và mọi người trong phòng thậm chí còn có một chiếc tủ có ngăn kéo ở đầu giường.

Một buổi tối, người giáo viên kia hỏi tôi có huy hiệu Mao Chủ tịch nào không để giao dịch. Thầy ấy cho tôi xem một huy hiệu mà thầy vừa mới có được. Nó giống như cái mà tôi đã chiêm ngưỡng ở nhà ga Nam Kinh. Thầy ấy muốn đổi lấy năm huy hiệu nhỏ màu đỏ hoặc hai huy hiệu vàng với những ai sẵn sàng trao đổi. Tôi nói với thầy rằng tôi chỉ có một cái nhỏ màu đỏ mà tôi đang đeo và một huy hiệu mạ vàng. Tôi mở ngăn kéo tủ đầu giường để lấy bọc vải, chứa hầu hết số tiền của tôi và tem phiếu ngũ cốc, và lấy huy hiệu vàng của tôi ra khỏi bọc. Tôi đã nghe nói ở Thượng Hải có rất nhiều bọn móc túi, vì vậy tôi đã không mang theo đồ có giá trị của mình ngoài đường. Sau khi xem cái huy hiệu màu vàng, người giáo viên đồng ý trao đổi. Bộ sưu tập của tôi bây giờ chỉ có một huy hiệu ngôi sao năm cánh. Có vẻ như đây là một thương vụ tốt, mặc dù các cạnh của ngôi sao đã bị mòn đi một chút và chân dung của Chủ tịch Mao bị trầy xước.

Hai ngày sau, tôi định vào trung tâm thành phố để mua một ít linh kiện radio giá rẻ. Khi mở bọc vải của mình ra, tôi đã sững sờ khi thấy tiền và tem phiếu ngũ cốc của mình đã biến mất. Bị dính đòn ăn cắp, ngay tại chính đồn công an này! Tôi không biết mình phải làm gì tiếp theo, tôi cần tiền để tiếp tục chuyến đi và ăn uống. Tôi đến chỗ những người phụ trách việc tiếp đón Hồng vệ binh tại đồn công an, nhưng tất cả những gì họ có thể cung cấp cho tôi là dăm ba lời an ủi và vài ngày ăn uống miễn phí.

Những người bạn cùng phòng đến từ Thiên Tân đã trở về chỗ ngủ sau khi trời tối, nhưng tay giáo viên từ tỉnh Giang Tô đã không trở lại, mặc dù cái áo khoác bông của hắn vẫn còn để trên giường. Nó khiến tôi nghĩ đến một trong ba mươi sáu kế, "Ve sầu thoát xác." Đêm muộn hôm đó, một người trong nhóm học sinh từ Thiên Tân muốn đi cùng tôi đến nhà ga để tìm tên trộm. Cho dù chúng tôi tìm rất kỹ trong đám đông trên tàu, tên trộm đã biệt tăm biệt tích.

Tôi đã có vé đi đến thắng cảnh ở Quế Lâm và đã lên kế hoạch ghé qua Hàng Châu và Quảng Châu trên đường đi. Anh học sinh từ Thiên Tân nói với tôi rằng nhiều Hồng vệ binh đang đi quán liên mà không tốn một xu nào của mình. Họ mượn tiền từ chính quyền địa phương ở bất cứ nơi nào họ đến. Họ thậm chí không mang theo túi ngủ, vì họ thừa biết rằng các trung tâm Hồng vệ binh sẽ đáp ứng bất cứ điều gì họ cần. Không có lý gì để từ bỏ chuyến đi của tôi.

Tôi quyết định làm theo lời khuyên của anh ấy. Sau đó, một chỉ thị mới về việc chấm dứt miễn phí vận chuyển cho mọi chuyến quán liên được thông qua. Tên Hồng vệ binh suýt đánh tôi ở Nam Kinh đã đúng. Chỉ thị nói rằng Hồng vệ binh sẽ chỉ nhận vé để trở về nhà, không có điểm dừng dọc đường cho chuyến hồi hương. Nó cũng khuyến khích thực hiện quán liên theo kiểu đi bộ, như cuộc Vạn lý Trường chinh. Các trạm đón tiếp sẽ tiếp tục hoạt động dành cho những ai hành quân đường dài. Rồi tôi sẽ phải về nhà, như bao mọi người khác. Đồn công an đưa cho tôi bánh mì để ăn trong hai ngày và một lá thư báo rằng tiền của tôi đã bị đánh cắp.

Tôi đi tàu khách trở lại Nam Kinh, đi phà qua Dương Tử đến Phổ Khẩu, và lại ngồi trên tàu hỏa đến tận Đức Châu, một thị trấn nhỏ nơi có chuyến tàu thẳng về Thạch Gia Trang. Lúc đó đã quá buổi trưa, bầu trời ảm đạm pha lẫn gió heo may. Chuyến tàu đi Thạch Gia Trang phải sáng hôm sau mới có.

Phòng chờ ở nhà ga Đức Châu chật ních những người nông dân lam lũ. Tất cả các băng ghế đều có người ngồi, hoặc nhìn như thể vô hồn hoặc ngủ gật trên ghế. Đột nhiên, có một bọn trẻ học sinh địa phương nô nức với cờ, chiêng, và trống, biến trung tâm của căn phòng thành một sân khấu. Chúng diễn một vở kịch ngắn mang tên “Quá Khứ Đắng Cay”. Một thằng bé đội mũ trùm đầu và mặc áo choàng đóng vai địa chủ, và một con bé trong bộ quần áo rách nát đóng vai thiếu nữ nông dân. Thiếu nữ vừa hát thê lương vừa khóc ướt đôi má, trong lúc tay địa chủ cầm roi vụt liên tục. Cuối cùng, những người nông dân nổi dậy đã xô ngã tên địa chủ xuống sàn và vung nắm đấm về phía anh ta. Sau đó, bọn trẻ nhanh chóng biến mất, y như cách chúng xuất hiện.

Cảm thấy lạnh lẽo và cô đơn, tôi tháo bung túi ngủ của mình ra và trải lên sàn, trong một góc cạnh cái bếp sưởi đang tỏa ra chút hơi ấm.​
 
Sửa lần cuối:
17. ĐÁ RƠI XUỐNG GIẾNG

Tôi về đến nhà ở Linh Thọ vào một buổi sáng vài ngày sau đó. Mai Nguyên đương ngồi ở ngưỡng cửa, dùng ống bễ trên bếp than và hát một bài ca cách mạng. Nó chào đón tôi với một tiếng thét, và cả Chỉ Hoa lẫn Tân Hoa chạy ra ngoài. Đặt chiếc túi ngủ cáu bẩn của mình xuống sân, tôi bước vào trong nhà. Một vật giống như một quả bóng bay được treo dưới mái hiên, Mai Nguyên giải thích rằng nó là một cái bàng quang lợn chứa đầy rượu nếp và hạt kê, được làm theo chỉ dẫn của một thầy lang, để chữa bệnh đái dầm cho Chỉ Hoa và Tân Hoa. Chúng nó phải uống rượu rồi nướng cái bàng quang lên và ăn nó. Hai đứa đã được áp dụng liệu pháp này một vài lần, và có vẻ cách chữa này đang phát huy tác dụng tốt.

Ngoài tin tốt đó, còn lại là những tin xấu hơn trước. Sức khỏe của ông ngoại đã xấu đi đến mức ông đã quá ốm yếu để rời khỏi chiếc giường sưởi, vì vậy đứa em gái Nhất Nguyên của tôi đã ở lại bên mẹ, còn ba đứa kia đang tự nấu ăn cho chính bản thân chúng. Thời khóa biểu của chúng ở trường tiểu học đã được tinh giản lại, chỉ để phân tích ba bài báo được đọc nhiều nhất của Mao Chủ tịch: "Phục vụ nhân dân", "Ngu lão hoán sơn," và "Tưởng nhớ Norman Bethune." Tệ hơn hết, những cáo buộc nhắm vào bố tôi ngày càng ác liệt, và mẹ tôi cũng bị lôi vào cuộc.

Những người ủng hộ bố tôi đã trốn tiệt, nhún nhường hoặc ủng hộ phe đối lập. Ngay cả trợ thủ của bố tôi, Tần Mão, cũng đã chống lại ông theo kiểu vô ơn trắng trợn. Chỉ vài năm trước đó, Tần Mão đang chăn bò ở một ngôi làng nơi miền núi nghèo khó, rồi bố tôi đã gặp hắn trong một chuyến thị sát. Bố ưa thích tính thật thà và chịu khó của tên chăn bò này, đến mức bố tôi đã sắp xếp cho hắn một vị trí trong chính quyền địa phương. Bây giờ Tần Mão dám viết một tấm áp phích tuyên bố rằng bố tôi đã đối xử với hắn như địa chủ với nông dân trong xã hội cũ. Ví dụ, Tần Mão nói rằng bố tôi bắt hắn phải dọn bô tiểu của ông. Hắn đã không đề cập đến việc hắn đã làm như vậy chỉ một lần duy nhất, và đây là ý định tự phát, khi bố tôi ốm.

Hai đứa em trai tôi kể về bọn Tư tưởng đã đưa hàng chục cán bộ bộ huyện, đem bêu diễu qua các đường phố của Linh Thọ như thế nào, ở đó có phó chủ tịch tỉnh dẫn đầu, đi theo sau là bố tôi, và những người khác phía sau theo cấp bậc, và cuối cùng là đội trưởng đội dân quân tự vệ của Linh Thọ. Bọn Tư tưởng đã bắt các cán bộ cấp cao nhất mặc trang phục quan lại và mũ cánh chuồn, bị trưng thu từ đoàn kịch của huyện, rồi bắt mọi người đi bộ với hai tay giơ lên như thể đang đầu hàng quân cách mạng. Gần cuối đoàn diễu hành, mẹ tôi bước đi với hai tay giơ lên đầu.

Nhóm Hồng vệ binh phe Chủ Nghĩa đã tan rã, một số người đứng đầu chạy trốn vào trong núi , còn những người khác đầu hàng bọn Tư tưởng. Các đồng nghiệp của bố tôi thì hầu hết chỉ quan tâm đến việc tự cứu lấy mình. Tay chỉ huy cấp dưới của bố, Mộ Ngân, một tên sống theo kiểu gió chiều nào theo chiều đấy, đã hợp tác với bọn Tư tưởng. Hắn làm tôi nhớ đến câu ngạn ngữ xưa: “Lạc tĩnh hạ thạch." (Nghĩa là ném đá vào người rơi xuống giếng).

Bố tôi không còn là bí thư Đảng ủy của huyện nữa. Tay bí thư đương nhiệm, sau khi trở về từ nhiệm vụ Bốn dọn dẹp của mình ở một huyện khác, đã sử dụng một kế sách khôn ngoan để chống lại mọi mối đe dọa. Vì tay bí thư này cũng là trưởng ban chính trị của sở chỉ huy quân sự địa phương, nên hắn áp dụng nguyên tắc của Mao Chủ tịch, rằng "sức mạnh chính trị được sinh ra từ họng súng," hắn luôn vận một bộ đồng phục quân đội, khiến cho bọn học sinh nổi dậy không dám động đến.

Bố mẹ tôi giờ phải sống trong một căn phòng đơn ở trụ sở chính quyền huyện, bởi vì bọn Tư tưởng đã sung công căn hộ ba phòng của họ. Tôi muốn gặp bố, nhưng các em tôi nói rằng nên đợi đến tối, vì bọn Tư tưởng luôn quấy nhiễu ông ấy vào ban ngày.

Tôi lang thang khắp Linh Thọ, các bài đả kích bố tôi liên tục đập vào mắt: "Thiêu sống Sơn Quỷ!"; "Hãy xử bắn Sơn Quỷ!"; "Chôn sống Sơn Quỷ!" "Ném Sơn Quỷ vào vạc dầu!" Tôi đi bộ đến trường trung học và thấy một khung cảnh tan hoang. Các đại tự báo trên các bức tường đã phai màu và đang tróc ra. Hầu như tất cả các cửa sổ đã bị phá vỡ, và kính vỡ nằm rải rác trên mặt đất. Một cậu bé, dường như là người duy nhất ở đây, nói với tôi rằng bọn Tư tưởng đã di chuyển đến khu tập thể Huyện ủy.

Trên đường trở về nhà, tôi thấy một đoàn diễu hành đang tiến đến chỗ mình. Tôi linh cảm rằng bố tôi phải ở trong những người xấu số đang cúi đầu đi đầu đoàn diễu hành. Khi họ đến gần hơn, tôi thấy người đi ở đầu đoàn là Mộ Ngân, phó huyện Linh Thọ. Đám đông đương hô khẩu hiệu đằng sau hắn là không phải là bọn học sinh trung học, họ là thành viên của các đội Bốn dọn dẹp, nổi dậy chống lại cấp trên của mình. Mộ Ngân đã hỗ trợ việc giám sát phong trào Bốn Dọn Dẹp ở hạt Linh Thọ. Cách mạng Văn hóa đã diễn ra được nửa năm rồi, và những người trong đoàn này vẫn còn bận tâm với phong trào cũ rích kia.

Trời vừa tối, tôi đến tòa nhà chính quyền huyện để tìm bố. Ông ấy đang ngồi ở bàn làm việc, trong một căn phòng khá trống trải, và đọc tờ Nhân dân nhật báo. Bố đang vận một chiếc áo khoác đệm bông trên đôi vai gầy của mình, đeo kính để đọc báo. Tôi chưa bao giờ thấy bố tôi như vậy trước đây. Bố quay lại khi tôi gọi tên, nét mặt của ông ấy vẫn nghiêm nghị như mọi khi. "Kiến Hoa, con đã quay về rồi à? Vậy là Vệ Hoa cũng đã về đến nhà?"

"Không ạ, anh em con không đi quán liên cùng nhau. Con đã đi cùng một đứa bạn cùng lớp, nhưng rồi chúng con đã cãi nhau và mỗi đứa một ngả. Con về đây một mình ạ."

"Nhẽ ra con không nên chia tay với đứa bạn đồng hành của mình. Đoàn kết luôn tốt hơn so với chia rẽ."

"Thế mẹ đâu ạ?"

"Mẹ và Nhất Nguyên đang đến thăm một người bạn của mẹ. Hai người sẽ trở lại sớm thôi. Mẹ con đang chịu rất nhiều áp lực trong những ngày này, vì vậy bố đã khuyến khích mẹ nên đi ra ngoài cho thư thái."

Bố tôi cầm cái tẩu thuốc nông dân dài đuỗn lên, nhồi thuốc lá vào và châm lửa. Ông ấy hít một hơi dài và đầu tẩu lóe sáng. Một làn khói nhạt phun ra khỏi mũi bố. "Con đã viết cho đồng chí Cao Sơn Quế một bức thư khá hay đấy," bố tôi nói. "Mẹ con cảm thấy việc con dùng từ ‘Đồng chí’ là hỗn xược." Trong một khoảnh khắc thoáng qua, tôi thấy đôi môi bố dường như nhếch lên vì thấy hài hước.

"Xin lỗi bố, bởi vì con nghĩ bức thư có thể bị người ta đọc. Cảm ơn bố đã trả lời ạ. Nó đến ngay trước khi con lên đường đi chuyến quán liên."

Trên bàn có một hộp thuốc thảo dược Điệt Tá Hoàn, để chữa những thương tích do té ngã, gãy xương, đụng dập và bong gân. "Con nghe nói bọn Hồng vệ binh ngoài kia liên tục quấy nhiễu bố. Bố có bị sao không ạ?" Tôi hỏi.

"Chẳng có gì nghiêm trọng. Cái này đã là gì so với những gì bọn bố đã trải qua trong kháng chiến chống Nhật. Tuy nhiên, bố cảm thấy không chấp nhận được, về những cách mà những người này sử dụng, đấu tố tất cả những ai nắm quyền bất kể họ là người như thế nào. Nó không giống với những gì Ủy ban Trung ương đã đề ra. Thông cáo Mười sáu điểm đã chỉ rõ rằng đa số cán bộ là có lý lịch tốt hoặc tương đối tốt. Tất cả chúng ta đều không thể là những người theo chủ nghĩa tư bản được.”

“Chúng có ép buộc bố phải khai nhận là một người đi theo tư bản không ạ?”

"Chúng có nỗ lực, nhưng bố đã cương quyết nói rằng bố không phải. Bố chắc chắn với bản thân mình về cái này. Bố không làm gì sai cả. Những bọn chống đối từ các xã trong huyện đến gặp bố, đòi cách chức những người lãnh đạo, nhưng bố đã nói với họ rằng bố cũng không có thẩm quyền làm điều đó. Chính quyền huyện đã bổ nhiệm những người lãnh đạo đó, và bố không thể nhớ hết tên được. Nhưng bọn này có thèm tin đâu."

"Sao chúng nó có thể vô lý như vậy? Bố ơi, con nghĩ bố nên rời khỏi huyện trong thời gian này, bố có thể quay lại Thủy Nguyên, nơi những người đồng đội du kích xưa kia sẽ bảo vệ bố. Hoặc là Chính Định, ở đó bố vẫn được coi là một cán bộ cách mạng."

"Kiến Hoa, bố biết việc này là điên rồ. Nhưng nhà nước đã giao cho bố trọng trách ở đây và bố phải thi hành nghĩa vụ của mình. Bố không thể bỏ bê việc của mình được."

"Sao bố không từ chức ạ? Trong xã hội phong kiến, khi quan lại bị thất sủng, họ chỉ cần cởi mũ áo từ quan và về trở thành dân thường. Quan lại thời phong kiến có quyền tự do như vậy, thì tại sao cán bộ Сộng sản trong một quốc gia theo xã hội chủ nghĩa lại không có?”.

"Con phải hiểu có một sự khác biệt khá lớn giữa chúng ta, những người cán bộ Сộng sản, với bọn quan lại phong kiến đó. Nghĩa vụ của chúng ta là vì dân phục vụ. Như Chủ tịch Mao đã nói, chúng ta giống như những hạt giống, được gieo giữa nhân dân, lấy nguồn sống từ nhân dân, để rồi bén rễ, đơm hoa, kết trái trong đó. Chúng ta nên đón nhận những lời phê bình của mọi người và sửa chữa lỗi lầm của mình. Chúng ta không thể chạy trốn, vì đó là một cái lò để tôi luyện ra những phôi thép tốt. Sau cùng, mọi thứ sẽ được làm rõ, tốt và xấu, trắng và đen, sự thật và sự giả dối."

Bố tôi quả là can trường biết bao! Cả cuộc đời bố đã cống hiến cho cách mạng, thậm chí bỏ cả gia đình. Nhưng bố tôi đã nhận lại được gì? Bị đấu tố, hiểu lầm, và ngược đãi. Tôi chỉ muốn kêu lên: "Bố ơi, vì lợi ích của mình và của gia đình, bố đừng tiếp tục cứng cỏi như thế này nữa!" Nhưng khi tôi nhìn vào đôi mắt kiên quyết của bố, mồm tôi như đóng băng lại.​
 
18. CUỘC THIÊN LÝ TRƯỜNG CHINH

Những cái cây trụi lá, báo hiệu mùa đông đang tới, dường như đã chiếm lĩnh toàn trường. Không có một ai xuất hiện trong tầm mắt, khi tôi đi qua cái cổng bằng đá cẩm thạch đã bị phá hủy một nửa. Cuối cùng tôi chỉ tìm thấy ba đứa cùng lớp trong ký túc xá của trường: bà chị tomboy Hoán Thiên; Nkrumah, bởi vì nó có làn da ngăm và tóc quăn, nên được mọi người đặt biệt danh theo tổng thống của Ghana từng đến thăm Bắc Kinh; và Delta, được đặt tên theo chữ cái Hy Lạp trong môn đại số, vì đôi mắt của nó có hình như vậy. Bọn họ đang ở trong phòng ký túc và nấu món khoai lang thái lát trên bếp. Những đứa khác trong lớp 85 vẫn còn trên đường, trong những chuyến quán liên của chúng hoặc ở nhà.

Ba người này đều xuất thân từ tầng lớp trung nông. Không ai muốn đi du lịch với bọn họ, và họ sợ gặp rắc rối nếu đi quán liên một mình. Tôi bèn mắng họ vì sự hèn nhát và đề nghị làm một chuyến quán liên với họ, nếu họ không màng đi bộ. Ba cặp mắt sáng lên với sự phấn khích. Chúng tôi quyết định lên đường đến Bắc Kinh vào ngày hôm sau, vì họ đã bị loại khỏi chuyến thăm Mao Chủ tịch của chúng tôi hồi trước.

Tôi nói lại điều mà anh học sinh từ Thiên Tân đã nói với tôi sau vụ tôi bị ăn cắp: chúng tôi không cần phải lấy mền và túi ngủ của mình vì các trung tâm tiếp nhận Hồng vệ binh sẽ cung cấp chỗ ngủ, và chúng tôi có thể vay tiền và tem phiếu ngũ cốc từ chính quyền địa phương trên đường đi. Té ra là chúng tôi sẽ không phải vay, vì có một chỉ thị mới được thông qua, dành cho những ai đi bộ đường dài, được trợ cấp bốn xu một ngày. Thầy chủ tịch Đặng đưa cho chúng tôi một lá thư giới thiệu và mười hai tệ mỗi người, đủ để dùng trong 30 ngày.

Anh Vệ Hoa đã trở lại trường vào đêm hôm đó với một món quà từ miền Nam, một bao gạo nếp lớn. Không thể cưỡng lại được sức hút của bao gạo, khi nó được bán quá rẻ ở Thành Đô, thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên, anh đã mang nó về nhà, qua hàng nghìn cây số. Loại gạo nếp này rất khó tìm thấy ở miền Bắc. Nó là một thành phần chính trong cháo bát bửu, một món cháo bao gồm các loại hạt và quả khô ăn vào ngày 8 tháng 12 âm lịch, và bánh ú, được gói trong lá tre hoặc vỏ sậy và nấu trong Lễ hội Thuyền rồng vào tháng 5 âm lịch. Anh ấy sẽ vác bao gạo về Linh Thọ để ủng hộ gia đình chúng tôi.

Đội Vạn Lý Trường Chinh gồm bốn người của chúng tôi xuất phát trước bình minh, đi bộ dọc theo đường ray xe lửa hướng đến Bắc Kinh. Chị Hoán Thiên hăng hái đi đầu ở phía trước, cầm một lá cờ trên cọc tre. Cứ một tiếng trôi qua, thi thoảng lóe lên ánh đèn pha của một đầu tàu hỏa, chiếu sáng dọc theo đoạn đường ray dài vô tận. Đoàn tàu tiến đến gần với tiếng lách cách dữ dội, và chúng tôi sẽ chạy ra khỏi đường ray để tránh bị cuốn vào. Rồi nó vượt đi xa, để lại tiếng lá cờ bay phập phù trong gió.

Mặt trời dần lên cao, nhuộm sắc cam lên những cánh đồng lúa mì. Bây giờ chúng tôi có thể được nhìn thấy từ xa, nên thỉnh thoảng một người lái tàu tinh quái sẽ cho chúng tôi chìm trong làn hơi nước nhả ra từ đầu máy. Chúng tôi dừng lại để ăn sáng tại một nhà ga nhỏ ven đường và sau đó tiếp tục hăng hái lên đường. Đến giữa buổi chiều, chúng tôi đã đi được tầm 30 km. Các khó khăn bắt đầu phát sinh. Delta đã thấm mệt, còn chân của Nkrumah thì đau nhức. Hai đứa bắt đầu nói về việc quá giang. Chị Hoán Thiên và tôi đã thuyết phục hai đứa cố đi xa thêm một chút. Vào buổi tối, mọi người đã kiệt sức. Khi chúng tôi nhìn thấy một số Hồng vệ binh khác trèo lên thùng sau của một chiếc xe tải ở ngã tư, chúng tôi tham gia với họ trong tiếng reo hò.

Chiếc xe tải chỉ đi xa đến ga tàu tiếp theo, và chúng tôi lại phải đi bộ, lần này trong màn đêm. Ba khuôn mặt ủ rũ quay sang tôi để tìm giải pháp. Tôi nói với Hoán Thiên phất cờ trường chinh của đội lên. Chúng tôi sẽ bắt chuyến tàu đêm và có mặt ở Bắc Kinh vào sáng hôm sau. Không cần phải lo lắng về chi phí, vì có nhiều cách để lên tàu mà không phải trả tiền vé, với lại người soát vé hiếm khi kiểm tra vào ban đêm. Nếu người soát vé đi qua, chúng tôi có thể trốn trong nhà vệ sinh.

Chúng tôi lên tàu, cầm vé giá hai xu đến ga tiếp theo. Sau vài giờ trôi qua mà không có người soát vé nào xuất hiện, cả bọn thư giãn và ngủ thiếp đi. Sáng sớm, chúng tôi xuống tàu tại một nhà ga trung chuyển hàng hóa ở phía tây nam Bắc Kinh, nơi đó an toàn hơn so với việc vượt qua các nhân viên soát vé tại nhà ga cuối. Chúng tôi đi bộ về hướng trung tâm thành phố. Những người quét đường cầm chổi rễ khô, phất lên những đám mây bụi dưới những ánh đèn đường vàng. Những người tập thể dục buổi sáng dần xuất hiện. Các cửa hàng bắt đầu mở vào lúc xe đạp và xe buýt chật kín đường phố.

Một chú công an chỉ đường cho chúng tôi đến trung tâm tiếp nhận Hồng vệ binh, tại một sân vận động ở phía nam của thành phố. Đám đông thanh thiếu niên đang chờ đợi trong hàng dài ngoằn ngoèo, qua sân vận động và một số tòa nhà hiện đại. Những người đi trường chinh nói với chúng tôi rằng đang có một lượng lớn Hồng vệ binh, nhiều hơn bao giờ hết, tiến vào thủ đô, mặc dù đã có sắc lệnh kết thúc các chuyến quán liên miễn phí. Người ta nói rằng các trung tâm tiếp nhận sử dụng tiền thuế quá mức cho phép, đến nỗi thủ tướng Chu Ân Lai đã để dành nhà riêng của mình để tiếp đón các Hồng vệ binh.

Quy tắc mới nhất là những ai ghé thăm được phép ở lại Bắc Kinh không quá một tuần. Hơn nữa, sẽ chỉ tiếp nhận những người đến bằng cách đi bộ. Tôi nhận ra lá thư giới thiệu của chúng tôi có một vấn đề. Đó là ngày trên thư ghi ngày mùng 1 tháng 12, chỉ hai ngày trước đó. Các lễ tân sẽ không bao giờ tin rằng chúng tôi đi bộ từ Chính Định một cách nhanh như chớp, như kiểu sứ giả Đới Tông trong tiểu thuyết Thủy Hử, có thể cuốc bộ 400 dặm trong một ngày. Nếu chúng tôi bị từ chối, cả bọn sẽ không có nơi nào để ở. Chúng tôi quyết định rằng giải pháp duy nhất là thay đổi ngày tháng trên bức thư. Cách đấy thực ra không khó, bởi vì những con số được viết bằng tiếng Hán thay vì chữ số phương Tây. Tôi sử dụng con dao bỏ túi của mình để cạo bỏ một nét ở số 12, trong tháng 12, thay đổi nó thành II, sang tháng mười một. Tôi đã thêm một vài nét vào để đổi số 1 thành 21.

Lá thư giới thiệu đã trót lọt qua mắt lễ tân. Chúng tôi nhận được vé xe buýt miễn phí và được trú lại tại Viện Triết học của Học viện Khoa học xã hội-nhân văn. Chúng tôi ở chung phòng với 15 đứa học sinh khác. Chúng tôi không cần mền, tiền hay tem phiếu ngũ cốc, vì đã có những tấm nệm bằng rơm lúa mì được phủ bằng khăn trải giường sạch và tấm chăn bông mới màu vàng, và các bữa ăn miễn phí. Tốt hơn cả là một chú bộ đội của Quân đội Giải phóng Nhân dân được giao đến phòng của chúng tôi, một người thân thiện đến từ miền đông bắc, cao như một vận động viên bóng rổ, và anh đã gặp gỡ Mao Chủ tịch năm lần. Công việc của anh ấy là để trả lời các khúc mắc của chúng tôi, giúp chúng tôi giải quyết mọi vấn đề và đảm bảo rằng chúng tôi sẽ rời đi sau một tuần.

Chúng tôi bắt xe buýt đến Quảng trường Thiên An Môn. Bắc Kinh lúc này nhìn đậm màu cách mạng hơn so với bốn tháng trước. Các biển quảng cáo in những lời trích dẫn của Mao Chủ tịch chiếm lĩnh mọi góc phố ở trung tâm thành phố. Các ký tự cao màu đỏ ghi: "Mao Chủ tịch muôn năm”, xuất hiện nhan nhản trên đỉnh các tòa nhà văn phòng và những cửa hàng mậu dịch. Nhiều cửa hàng đã nhuộm đỏ mặt tiền, và cờ đỏ tung bay khắp nơi.

Những khẩu hiệu bị bong tróc phủ kín khán đài duyệt binh trước cổng Thiên An Môn, lan can cầu Kim Thủy, và hai con sư tử đá khổng lồ đứng gác trước cổng. "Đập tan trụ sở của bọn tư sản trong Đảng!”, hầu hết các băng rôn khẩu hiệu đều ghi như vậy. "Đả đảo Lưu, Đặng và Đào!", gồm Lưu Thiếu Kỳ, nguyên thủ quốc gia; Đặng Tiểu Bình, tổng thư ký Ban Bí thư Trung ương; và Đào Chú, một phó thủ tướng. Cả ba cái tên đều được bao phủ bởi chữ X màu đỏ. Những kẻ chống đối ở Bắc Kinh đã táo bạo làm sao, khi nhắm đến mục tiêu cao như vậy!

Các nhà lãnh đạo cấp cao bị tấn công ở khắp thủ đô. Ở một số nơi, những phe chống đối sẽ đem họ đi diễu hành thường xuyên để cho du khách chứng kiến. Chúng tôi đến trụ sở Trung ương Đoàn Thanh niên Сộng sản để xem "nhị Hồ" bị thất sủng: Hồ Diệu Bang, tổng bí thư của Đoàn Thanh niên, và Hồ Khắc Thi, phụ tá của ông ấy. Hồng vệ binh bắt hai người đứng trên ban công tầng ba khoảng 15 phút mỗi giờ.

Lực lượng Hồng vệ binh Bắc Kinh đã chia thành ba nhóm lớn, mỗi nhóm xuất bản tờ báo của riêng mình. Những tờ báo này đầy rẫy những câu chuyện giật gân về cuộc sống suy đồi của các quan chức cấp cao. Một bí thư Đảng ủy trong khu vực bị cáo buộc là dùng bữa với đủ loại món ngon, và khi Hồng vệ binh lục soát nhà ông ta, đã tìm thấy bốn cái pín bò trên thớt.

Với việc ăn uống, chỗ ở và phương tiện đi lại miễn phí, đội trường chinh chúng tôi có thể dành ra một vài hào cho một tờ báo Hồng vệ binh, bất cứ khi nào chúng tôi thích. Chúng tôi cũng có thể mua đồ ăn nhẹ và những món quà lưu niệm. Mỗi người trong nhóm chúng tôi đã mua một chiếc mũ bánh tiêu và một cái thắt lưng vải dù màu xanh lá cây, để vẻ ngoài giống quân đội. Chúng tôi đã mua thêm ảnh của Chủ tịch Mao để đổi lấy huy hiệu. Chúng tôi đã mua chân giò lợn và dê, ăn chúng trên xe buýt và bỏ xương dưới ghế ngồi của mình. Chúng tôi thậm chí đã bỏ ra tám xu mỗi người để được chụp ảnh trước cổng Thiên An Môn. Anh bộ đội phụ trách phòng cho chúng tôi mượn chiếc áo khoác của anh ấy để tạo dáng trên ảnh. Chúng tôi cũng đã dành hàng giờ đi qua các cửa hàng mậu dịch bách hóa và lần đầu tiên trong đời thấy một chiếc tivi.


Tác giả tại cổng Thiên An Môn - Ảnh chụp 1966

Chúng tôi sống một lối sống xa hoa tại Học viện Triết học. Vì không ai phải trả tiền cho thức ăn, mọi người thường lấy nhiều hơn so với sức ăn, và kết quả là trên sàn đầy thức ăn thừa mứa sau mỗi mỗi bữa ăn. Một ngày nọ, một tấm áp phích xuất hiện chỉ trích sự lãng phí này. Người đăng ghi rằng chúng tôi nên học hỏi Thủ tướng Chu Ân Lai, người đã ăn bánh bao hấp và bắp cải xào trong nhà ăn dành cho nhân viên tại Đại lễ đường Nhân dân, rồi đổ nước nóng vào bát của mình và uống nước canh loãng. Tình hình nhà ăn đã được cải thiện đáng kể sau đó.

Những người bạn cùng phòng của chúng tôi đến từ khắp nơi trên toàn quốc. Bao gồm một số học sinh từ tỉnh Quảng Đông, thường háo hức chạy ra ngoài khi có một trận tuyết rơi nhẹ xuống Bắc Kinh. Cũng có một vài đứa từ Nội Mông, khiến mọi người thấy phiền toái với cuộc săn lùng chấy rận trên quần áo của họ hàng đêm.​
 
Sửa lần cuối:
18. CUỘC THIÊN LÝ TRƯỜNG CHINH (tiếp)

Một tuần trôi qua nhanh chóng. Nhóm chúng tôi được cấp một vé tàu một chiều về Thạch Gia Trang. Chúng tôi nhờ anh bộ đội giúp chúng tôi ở lại, nhưng anh nói rằng không thể được. Chúng tôi tranh luận về nội bộ nhóm: Chúng ta có nên về nhà bằng tàu hỏa không, hay tiếp tục cuộc trường chinh bằng đôi chân, hay tìm cách ở lại Bắc Kinh? Cuối cùng cả bọn nhất trí rằng giải pháp cuối cùng là tốt nhất. Sau khi anh bộ đội hộ tống chúng tôi đến nhà ga xe lửa, chúng tôi quay trở lại trung tâm tiếp nhận Hồng vệ binh và xuất trình lại giấy giới thiệu của chúng tôi.

Mưu kế này đã thành công xuất sắc. Lần này, chúng tôi được chỉ định trú tại Cung Thiếu nhi Bắc Kinh, phía sau Công viên Cảnh Sơn. Chúng tôi phát hiện ra rằng cựu huấn luyện viên của nhà vô địch bóng bàn thế giới, Trang Tắc Đống, đã sống ở đó. Ông ấy chơi bóng bàn với chúng tôi tại chính cái bàn mà Trang Tắc Đống đã tập luyện.

Đồ ăn ở Cung Thiếu nhi rất ngon. Nhà bếp đã cho chúng tôi phiếu ăn miễn phí được in trên tờ giấy màu xanh lục, mà chúng tôi dùng để đổi lấy các bữa ăn. Nếu chúng tôi muốn ăn thêm thì sẽ phải trả tiền. Delta nhanh chóng tìm ra cách kiếm được đồ ăn thêm miễn phí, bằng cách sử dụng những mảnh giấy màu xanh lá cây trống. Chỉ cần cầm một phiếu ăn thực sự lên trên và một cái giả bên dưới thò ra cạnh, và nói với người phục vụ rằng mình đang lấy thức ăn cho một người bạn. Không ai thèm bận tâm kiểm tra.

Chúng tôi sử dụng thẻ xe buýt của mình càng nhiều càng tốt, thậm chí đã có một cuộc thi giữa chúng tôi, xem ai có thể đi hết 50 tuyến xe buýt có số lẻ trong thành phố. Thường thì tôi sẽ đi ra ngoài một mình trong buổi tối, lên xe buýt, đi đến điểm dừng cuối cùng, chuyển sang một tuyến đường khác, cho đến khi đã rất muộn. Đôi khi tôi ngủ quên và người bán vé sẽ đánh thức tôi dậy ở nhà ga.

Chúng tôi đều dừng lại thám thính bất cứ khi nào thấy một nhóm nhỏ Hồng vệ binh đang trò chuyện, vì ở đó họ thường trao đổi huy hiệu và phù hiệu hình Chủ tịch Mao. Chúng tôi đã có được các bức tranh in mới nhất, mô tả các địa danh lịch sử cách mạng, ví dụ như Thiều Sơn, nơi sinh ra của Chủ tịch Mao; dãy núi Tỉnh Cương Sơn, nơi Đảng ******** đã thành lập căn cứ sau cuộc thảm sát của Tưởng Giới Thạch vào năm 1927; Tuân Nghĩa, nơi diễn ra cuộc họp quan trọng của Ủy ban Trung ương trong thời gian cuộc Trường chinh; và Diên An, căn cứ kháng chiến sau cuộc Trường chinh đến lúc Giải phóng.

Các tờ báo Hồng vệ binh liên tục cập nhật về các sự kiện đang diễn ra. Nhóm Hồng vệ binh nổi dậy ở Bắc Kinh bắt được nguyên thủ quốc gia Lưu Thiếu Kỳ và vợ ông là Vương Quang Mỹ, bằng cách giữ con cháu của họ làm con tin. Trang đầu có hàng chữ: "Hồng vệ binh chúng ta đã bắt sống tên Lưu Thiếu Kỳ bằng mưu kế". Chúng tôi cũng đã mua bản sao của tuyển tập Những bài thơ chưa xuất bản của Mao Chủ tịch. Trong đó có một bài thơ ám chỉ bà Vương Quang Mỹ, hỏi tại sao bà ấy lại dựng một bia mộ khổng lồ cho người cha tư bản của mình, Vương Hoài Thanh.

Tuần thứ hai trôi qua nhanh hơn tuần đầu. Một lần nữa, chúng tôi được cấp vé trở về Thạch Gia Trang và được hộ tống đến nhà ga. Chú bộ đội này không rời đi, cho đến khi chúng tôi lên một chuyến tàu tốc hành về phía nam. Chuyến tàu này đông đúc và chật chội, không kém những chuyến tàu khác mà tôi đã từng đi. Delta và chị Hoán Thiên đã cố gắng chen lấn và dành được chỗ ngồi, trong khi Nkrumah và tôi nằm trên giá hành lý, buộc thắt lưng cố định để không bị ngã khi ngủ. Chuyến tàu sẽ đi đến Quảng Châu, chị Hoán Thiên và Nkrumah đồng ý với tôi rằng đó là một cơ hội quá tốt để bỏ lỡ. Chúng tôi sẽ đi đến ga cuối, mặc kệ địa điểm in trên vé của mình. Delta muốn xuống ở Thạch Gia Trang, nhưng không mở cửa kịp, nên nó lại tiếp tục cuộc hành trình, trái với ý muốn của mình.

Lúc này chúng tôi chỉ còn vài tệ trong người. Miệng cả bọn luôn nhỏ dãi trước các quầy gà nướng, đậu phụ thối, và các món địa phương đang được bán trên các ga tàu dọc đường. Nhưng chúng tôi không đủ khả năng chi trả và phải xoay xở với bánh vụn và nước lọc.

Chúng tôi đến Quảng Châu vào khoảng nửa đêm, ba ngày sau khi rời Bắc Kinh. Khi ra khỏi nhà ga, cả bọn nhễ nhại dưới thời tiết oi bức, chúng tôi bỏ vé về Thạch Gia Trang vào một cái hộp, vờ là nhóm Hồng vệ binh đang trở về nhà. Bất cứ ai cũng có thể biết chúng tôi là từ phương bắc xuống bởi áo khoác bông đang vận, nhưng không ai để tâm. Trung tâm tiếp nhận đã không nghi ngờ gì, trước lời giới thiệu của chúng tôi là những người đi quán liên bằng cách đi bộ, và phân công cả bọn đến một tòa nhà ở trung tâm thành phố Quảng Châu. Chúng tôi sử dụng số tiền còn lại của mình để mua chuối. Chúng tôi đã đến thăm văn phòng chính quyền thành phố , chuyên xử lý các vấn đề của Hồng vệ binh, để hỏi vay tiền, chỉ để tìm thấy một đám đông Hồng vệ binh khác cũng đang có cùng ý tưởng. Người đàn ông phụ trách chẳng cho gì. Tất cả những gì chúng tôi nhận được, là bốn vé đến Hội chợ Thương mại Quảng Châu. Tuy nhiên, không ai lo lắng, vì chỗ ở và thức ăn ở đây cũng miễn phí.

Thật thú vị khi đi dạo quanh Quảng Châu ngay sau khi trời tối, khi người dân địa phương đi mua sắm và ăn tối. Chúng tôi nhìn vào tất cả các cửa sổ của nhà hàng và đọc thực đơn. Người ta nói rằng dân Quảng Châu sẽ ăn bất cứ thứ gì có bốn chân ngoại trừ một cái bàn, và bất cứ thứ gì có hai cánh ngoại trừ một chiếc máy bay. Một số nhà hàng có bể chứa đầy rắn sống và lọ đầy thịt chuột khô được trưng bày. Một số nhà hàng nổi tiếng phục vụ món óc khỉ, con khỉ bị khóa chặt ở một chiếc bàn đặc biệt, đầu của nó bị cố định lên, người phục vụ sẽ mở hộp sọ và thực khách sẽ múc ăn trong khi con khỉ dãy dụa dưới bàn.

Trước một cửa hàng bách hóa bên sông Châu Giang, chúng tôi tìm thấy một chợ đêm sầm uất chuyên bán huy hiệu Mao Chủ tịch. Chúng tôi giơ cao gói ảnh Mao Chủ tịch và hét lên: "Mười ảnh cho một huy hiệu núi Tỉnh Cương Sơn! Mười bức ảnh cho một phù hiệu Diên An!". Đột nhiên, chúng tôi bị bao vây bởi năm thanh niên đeo kính râm mặc dù trời tối. Họ chộp lấy những bức ảnh của chúng tôi, xé chúng ra làm trăm mảnh. "Đó là những bức ảnh của Mao Chủ tịch!" Tôi phản đối. "Sao bọn mày dám xé chúng! Đồ phản cách mạng!" Một trong số bọn chúng đấm gục tôi bằng một cú vào ngực. Nkrumah và chị Hoán Thiên đã cố gắng giúp tôi đứng dậy nhưng cũng bị xô ngã xuống. Tiếng ồn ào xung quanh chúng tôi lắng xuống một lúc, nhưng không ai đến cứu giúp chúng tôi. Cả bọn ù té chạy. Các thanh niên đuổi theo chúng tôi đến tận bến xe buýt, la hét chửi bằng tiếng Quảng Đông. Chúng tôi nhảy lên xe buýt và cửa đằng sau đóng lại. Đã đến lúc rời Quảng Châu rồi.

Thật không may, nhóm Cách mạng Văn hóa Trung ương đã vừa ban hành văn kiện mới, ngừng phát hành vé một chiều về nhà. Hồng vệ binh đang đi quán liên bằng tàu hỏa được cho là giờ đã ở nhà, và những người trường chinh sẽ đi bộ về nhà. Chúng tôi không thể mua vé về nhà, vì chúng tôi đã dành đến xu cuối cùng để mua chuối. Không có tiền, chúng tôi thậm chí không thể có được một vé vào sân ga để quay trở lại nhà ga xe lửa Quảng Châu. Về phần đi bộ, chúng tôi xa cách nhà hàng nghìn cây số. Delta bắt đầu khóc nhè.

Sau khi xem qua bản đồ, chúng tôi hướng đến một nhà ga nhỏ ở ngoại ô thành phố. Chúng tôi đi bộ từ những cánh đồng, lẻn vào sân ga và lên chuyến tàu đầu tiên qua mình, chở toàn nông dân địa phương. Mặc dù chúng tôi đã tháo băng tay Hồng vệ binh màu đỏ để tránh thu hút sự chú ý, nhưng một nữ tiếp viên trẻ vẫn nhìn chằm chằm vào chúng tôi. Cô ấy bắt chúng tôi chìa vé tàu. Chúng tôi bị bắt, bị bàn giao cho trưởng đoàn tàu và bị đuổi ra ở điểm dừng tiếp theo. Cánh đồng lúa gạo trải dài xung quanh chúng tôi. Chúng tôi chưa rời khỏi tỉnh Quảng Đông.

Chúng tôi quyết định đợi đến khi trời tối để cố lẻn vào một chuyến tàu chở hàng. Trong khi các đồng đội của tôi chợp mắt trong phòng chờ, tôi lang thang giữa các cửa hàng và quầy hàng quanh nhà ga, ngắm nhìn những đống trái cây, hạt và cá khô. Tôi cảm thấy món cá khô đặc biệt hấp dẫn. Chúng tôi đã rời Quảng Châu chỉ với hai hộp cơm nguội và một ít bánh bao hấp từ chỗ trú trước đo, nên cá sẽ giúp bữa ăn no đủ hơn. Người bán hàng quay lưng lại trong giây lát, và tay tôi dường như mất kiểm soát, giật lấy hai con cá khô và giấu vào trong tay áo. Tôi bước chầm chậm về phòng chờ và đặt con cá vào một hộp đựng đồ ăn. Trái tim tôi đập loạn lên, trước đây mình chưa bao giờ ăn cắp bất cứ thứ gì.

Tôi thức dậy sau một giấc ngủ say, khi nhìn thấy một chú công an đứng trước mình. Tôi nghĩ chú đến để bắt tôi vì đã trộm cá. Nhưng chú công an này chỉ đơn thuần muốn đuổi bốn đứa chúng tôi ra khỏi phòng chờ. Có lẽ chú ấy nghĩ chúng tôi là những kẻ móc túi. Chúng tôi thanh minh rằng mình không phải là người xấu, nhưng chú công an cứ nhất mực quả quyết. Chúng tôi đành phải ra lang thang trong bóng tối.

Nhiều chuyến tàu chạy qua nhà ga mà không có vẻ dừng lại. Cuối cùng một đoàn tàu chở hàng cũng dừng lại. Chúng tôi kéo nhau lên và trèo vào một toa xe không nóc, rồi thấy cả bọn đang ngồi trên một lớp bụi than dày đặc. Cái toa tiếp theo trông sạch sẽ hơn, vì vậy chúng tôi quyết định đi sang đó. Chị Hoán Thiên và tôi vẫn ở trên khớp nối khi đoàn tàu dần nhả phanh ra, kèm theo tiếng rít dài và bắt đầu di chuyển. Nkrumah và Delta nắm lấy cánh tay của chị Hoán Thiên, tôi bèn đẩy chị vào trong toa, sau đó cố gắng ngược gió để leo vào theo chị. Bốn đứa chúng tôi nằm lăn lộn trên sàn xe và cười ha hả dưới ánh trăng.

Trời rét cóng như đang nhắc nhở rằng sắp tới giữa mùa đông. Chúng tôi rúc vào một góc trên toa xe. Con tàu thi thoảng dừng lại không theo chu kì, có lúc khá lâu. Các thợ bảo trì sẽ đến và nện búa dưới gầm tất cả các toa xe, khiến chúng tôi inh tai nhức óc. Vào buổi sáng, chúng tôi thức dậy và thấy mình được bao phủ bởi một lớp tuyết cực mỏng, còn mặt của bốn đứa đen thui vì bụi than. Chúng tôi duỗi cơ thể cứng đờ ra và mở hộp cơm của mình. Thật là một điều tuyệt vời khi bữa ăn của chúng tôi có cá ăn kèm! Tôi thừa nhận hành vi trộm cắp của mình với cả bọn và nhận được lời khen ngợi.​
 
18. CUỘC THIÊN LÝ TRƯỜNG CHINH (tiếp)

Đêm sau đó thậm chí còn tồi tệ hơn. Chúng tôi che mặt trong khăn và nhét tay vào trong tay áo. Cơn đói và trời lạnh đã giữ cho chúng tôi tỉnh táo. Vào buổi sáng, tôi thấy tay phải của mình bị cứng đờ trong thế nắm tròn. Tôi đã cố gắng kéo thẳng các ngón tay bằng tay trái, nhưng rồi chúng lại cong lên như một chân gà. Delta nói rằng tôi chắc chắn đã mắc phải "bệnh chân gà", một căn bệnh mà một người đàn ông trong làng của nó từng mắc phải.

Ngay sau đó, tàu lại dừng lại, và chúng tôi ngồi đợi vài giờ. Chúng tôi chuẩn bị đứng lên và nhìn xung quanh thì có tiếng búa đập vào bánh xe ngay bên dưới toa của chúng tôi. Một bàn tay, một chiếc mũ màu xanh lam, và một khuôn mặt phong trần xuất hiện trên rìa của xe của chúng tôi. Chúng tôi chắc chắn rằng anh công nhân đường sắt này sẽ đưa chúng tôi đến đồn công an gần nhất. Tuy nhiên, anh ấy chỉ khuyên chúng tôi trèo xuống. Khi leo ra ngoài, chúng tôi nhận ra rằng toa xe của chúng tôi là một trong năm cái toa đang đỗ trên một đoạn đường sắt. Xe đầu tàu đã bỏ đi từ bao giờ.

Người công nhân không nói tiếng Quảng Đông, đó một dấu hiệu tốt cho thấy chúng tôi đã ra khỏi tỉnh. Chúng tôi được biết rằng mình hiện đang ở Hồ Nam, vẫn chỉ bằng một phần ba chặng đường quay trở lại Bắc Kinh. Nơi này là một nhà ga nhỏ trên một tuyến trung chuyển, cách tuyến đường sắt Bắc Kinh - Quảng Châu hai mươi cây số. Chúng tôi lại phải đi bộ tới nhà ga gần nhất trên tuyến chính, nơi trưởng tàu của một đoàn tàu chở hàng, một người thân thiện từ miền bắc, đã đồng ý nhận chở chúng tôi đến nhà ga lớn tiếp theo. Chúng tôi lẻn vào một số đoàn tàu chờ khách nối tiếp nhau. Mỗi lần chúng tôi bị phát hiện và bị đuổi ra, cả bọn tự an ủi mình rằng càng lúc càng gần Bắc Kinh hơn.

Vào sáng sớm hôm sau, chúng tôi đến Trường Sa, thủ phủ của tỉnh Hồ Nam. Nơi sinh của Chủ tịch Mao, Thiều Sơn, ở gần đó. Đây là lúc tốt để rời khỏi chuyến hành trình trên đường sắt, để nghỉ ngơi và tham quan các địa danh cách mạng. Lễ tân ở trung tâm tiếp nhận Hồng vệ binh gửi chúng tôi đến sân vận động tỉnh Hồ Nam. Bữa ăn đầu tiên của chúng tôi ở đó, bao gồm cơm trắng, thịt bò hầm và dưa chua Hồ Nam, là món ăn ngon nhất tôi từng nếm trong đời. Chúng tôi ngủ say như chết trên sàn sân vận động cả ngày lẫn đêm. Sau đó, tôi báo cáo với bệnh viện ở sân vận động về căn bệnh ngón chân gà của mình. Bác sĩ đã sử dụng liệu pháp châm cứu và tia hồng ngoại để chữa trị.

Thời niên thiếu của Chủ tịch Mao được lưu dấu khắp Trường Sa. Chúng tôi đến thăm trường đại học sư phạm nơi Chủ tịch đã học, và nhìn thấy cái giếng nơi Người đã tắm nước lạnh vào mỗi buổi sáng. Chúng tôi đi phà đến Đảo Cam ở giữa sông Tương, nơi mà Người đã đề cập đến qua những bài thơ viết tay. Chúng tôi sẽ đi đến Thiều Sơn, nếu như chúng tôi còn tiền đi xe buýt. Thay vào đó, chúng tôi đã lấy phù hiệu Thiều Sơn tại điểm giao dịch phù hiệu địa phương.

Chúng tôi ở Trường Sa vào ngày sinh nhật thứ bảy mươi ba của Chủ tịch Mao, ngày 26 tháng 12. Nhà ăn ở sân vận động phục vụ mỳ trường thọ để kỷ niệm tuổi mới của Người, bất chấp một nghị quyết của Ủy ban Trung Ương, được thông qua ngay sau Giải phóng, nói rằng người dân không nên tổ chức sinh nhật mừng lãnh đạo.

Các quy tắc cho những người đi quán liên lâu ngày đã được thay đổi một lần nữa. Một lần hơn nữa, Hồng vệ binh có thể nhận được vé miễn phí về nhà để tham gia cuộc đấu tranh chống bọn tư bản, nên chúng tôi đăng ký ngay bốn vé tàu đi Thạch Gia Trang. Chúng tôi nhận được vé ngay sau đó, nhưng chuyến tàu này không về thẳng ga, cả bọn sẽ phải đổi tuyến ở Vũ Hán.

Chúng tôi đến Hán Khẩu lúc nửa đêm vào ngày cuối cùng của năm 1966, không một xu dính túi và đói khát. Chuyến tàu tiếp theo đến Thạch Gia Trang là vào chiều hôm sau. Để lại ba người bạn đồng hành của tôi ngồi trong phòng chờ, tôi dũng cảm một mình lên đường đến trụ sở Quận ủy để cầu xin sự giúp đỡ. Một viên chức ở đó cho phép tôi ngủ chung phòng với các Hồng vệ binh khác. Sáng hôm sau, ông ấy cấp cho tôi bữa sáng, tám nhân dân tệ, và lượng tem phiếu ngũ cốc tầm 8 lạng.

Phấn khởi, tôi bắt xe buýt trở lại nhà ga, nhưng đồng đội của tôi không có trong phòng chờ. Tôi phát hiện ra cả bọn đứng trên vỉa hè nói chuyện với một chú công an. Delta đang cho viên cảnh sát xem huy hiệu Núi Tỉnh Cương và nói: "Chúng cháu chưa có gì ăn được một ngày rồi ạ. Chú làm ơn đổi cho chúng cháu một ít tiền và một ít tem phiếu ngũ cốc để lấy huy hiệu này. Thông thường nó có giá trị mười hoặc mười hai phù hiệu nhỏ." Chú công an dẫn cả ba người vào một nhà hàng và gọi ba bát mì. Tôi xuất hiện tại bàn và kiêu hãnh đề nghị trả lại tiền cho chú công an, nhưng chú từ chối. Tôi đã tháo huy hiệu Mao Chủ tịch bằng vàng giá trị cao của mình từ ngực của mình và khăng khăng rằng chú nên nhận lấy.​
 
19. NHỮNG KẺ XÔNG NHÀ ĐẦU XUÂN

Những người nông dân ở miền bắc Trung Quốc có một bài vè về "Cửu Sác", đó là chín kỳ, trong mỗi kỳ có chín ngày, tính sau ngày đông chí.​

Kỳ một kỳ hai,
Tay chôn áo ấm.
Kỳ ba kỳ bốn,
Tung hoành sông băng,
Kỳ năm kỳ sáu,
Hàng liễu đâm chồi,
Kỳ bảy đi tới,
Đứng nhìn băng tan,
Kỳ tám lại qua,
Ngỗng về làm tổ,
Và rồi kỳ chín,
Trâu ra cày ruộng.

Khi tôi quay trở lại từ miền Nam thì đã đến giữa kỳ bốn và kỳ năm. Chị Hoán Thiên, Nkrumah và Delta về làng của họ, còn tôi đến Linh Thọ để đoàn tụ với gia đình vào dịp Tết Nguyên Đán. Thị trấn huyện lỵ đương chuẩn bị cho kỳ nghỉ lễ cổ truyền như bao đời nay từng làm. Tuy chiến dịch đập tan Bốn cái cũ vẫn còn đó, đây là một dịp lễ mà tôi chắc mọi người sẽ không bao giờ chối bỏ.

Trên những góc phố khắp thị trấn, hơi nước bốc lên từ vạc gang có đường kính hai mét, trong khi các đồ tể mài sắc dao của họ. Mọi người có thể ăn cháo trắng trong năm, nhưng Tết thì phải có thịt lợn. "Xuyên tiêu, đinh hương, quế, thì là, hoa hồi đây! Ai mua ngũ vị hương hầm thịt đón Tết nào!" Các hàng bán gia vị vừa quảng cáo vừa nghiền bột ngũ vị hương thơm lừng của họ.

Tôi tạm dừng lại để xem một đồ tể đụng một con lợn. Hai chân của nó đã bị trói chặt vào nhau và nó đang kêu ré lên điên cuồng. Mặc dù mọi người xung quanh đều mặc quần áo đệm bông, người đồ tể cởi trần, với một chiếc tạp dề đẫm máu lợn buộc quanh eo, còn mặt của anh ấy đỏ bừng như vừa uống rượu. Với nụ cười trên môi, anh đè con lợn xuống bằng một bên gối, một tay nắm lấy mõm, tay kia đưa con dao bầu kề lên cổ lợn. Một tay đồ tể sẽ được đánh giá là giỏi nếu cú đâm từ vị trí đấy trúng tim con lợn. Bằng một động tác rút dao thật nhanh gọn, máu chảy xối xả xuống chậu. Muối được thêm vào để đấy nhanh quá trình đông lại.

Tay đồ tể rạch một lỗ nhỏ ở một bên chân sau con lợn, luồn một ống thép dài xuyên vào bên dưới lớp da. Anh ấy đặt miệng vào lỗ và thổi con lợn lên như quả bóng bay. Một vài trai tráng ném con lợn vào vạc nước sôi để trụng lông. Sau đó, đồ tể cạo sạch lông bằng dao cạo và chặt đầu lợn. Thân lợn sau đó được treo vào móc để đồ tể mổ bụng ra. Ruột và mọi thứ khác vẫn còn nguyên vẹn và được làm sạch. Sau cùng, đồ tể đã xẻ đôi cái xác một cách gọn gàng. Hai nửa con lợn nằm trên một chiếc xe cút kít, mỡ thịt núng nính. Đồ tể sau đó hút một điếu thuốc như thể không có chuyện gì nghiêm trọng xảy ra. Một người đi qua có lời bình phẩm rằng: "Nhân phách xuất danh, trư phách tráng." (Người sợ nổi tiếng cũng giống như lợn sợ béo).

Một số ông đồ già đã mở các gian hàng thư pháp ở phía trước nhà hát huyện. Với một khoản tiền nhỏ, họ sẽ viết các câu đối Tết cho nông dân trong thị trấn. Người viết thư pháp giỏi nhất là một ông lão có chòm râu trắng với sáu ngón tay trên tay phải. Những năm trước, ông đã viết những câu như “Trong tiếng pháo nổ tiễn năm cũ, vạn nhà treo bùa gỗ xoan đào mới để trừ tà." Năm nay, ông ấy đã từ bỏ những điều mê tín vô nghĩa như vậy để thay bằng các câu như "Uống nước trong, nhớ đến người đào giếng - Hạnh phúc rồi, đừng quên Mao Chủ tịch" hay "Gió xuân xanh làm sơn thủy hữu tình - Tư tưởng Mao làm hồng cả đất nước."

Đằng sau những nhà thư pháp, những tấm áp phích mới toanh dán đầy trên bức tường nhà hát: “Đả đảo tay sai của bọn tư sản bên trong Đảng, tên Sơn Quỷ theo chủ nghĩa tư bản và phản động xét lại!" và "Hãy quăng tên tư bản xuống đất, dẫm chân lên để hắn không bao giờ đứng dậy, và để thanh danh của hắn ô uế vạn năm sau!"

Những kẻ nổi dậy giờ buộc tội bố tôi với tội phát biểu rằng đấu tranh giai cấp đã không còn, một ý kiến mà ông đã bàn đến trong một cuộc họp mấy năm về trước. Họ cũng cáo buộc rằng ông đã đi theo Lưu Thiếu Kỳ, người hiện được coi là Khrushchev của Trung Quốc, trong việc thúc đẩy ý tưởng sặc mùi tư bản: Ba tự do và một khoán - các mảnh đất tư nhân, tự do thị trường, doanh nghiệp độc lập và hạn ngạch sản xuất theo hộ gia đình. Bố tôi đã từng làm việc trong nhà máy thép ở Thạch Gia Trang khi chính sách đó được thông qua. Ông không hề phản đối ý tưởng trên sau khi phục hồi chức vụ, vì bố tôi nghĩ rằng nó sẽ giúp nông dân khắc phục hậu quả của Ba Năm Khó Khăn.

Bố mẹ tôi vẫn ở trong căn phòng nhỏ chỗ chính quyền quận. Nhất Nguyên nói với tôi rằng bọn Hồng vệ binh từ trường trung học và chính quyền quận có mặt mọi lúc để đưa bố tôi đi thẩm vấn. Có lần chúng đến thăm lúc nửa đêm, mẹ đã giúp bố trốn bằng cách leo lối cửa sổ sau và nói với chúng rằng một nhóm Hồng vệ binh khác đã dẫn ông đi. Đôi khi những kẻ nổi dậy bắt cả mẹ và bố để thẩm vấn, bỏ lại Nhất Nguyên. Bây giờ nó có rất nhiều "cô" và "chú" - những người bạn đã nhận trông nó khi bố mẹ tôi bị giải đi.

Bọn Tư tưởng càng trở nên táo bạo hơn. Đứng đầu là một tên sinh viên tên Đại Ban (hay sẹo lớn), mọi người nói rằng sở dĩ hắn có tên như vậy là vì đã ngã vào một tảng đá nhọn và bị rách mặt, khi chạy qua một cánh đồng với một quả dưa hấu ăn cắp được. Những tên dưới trướng đã xúi giục cuộc nổi dậy ở các thôn làng và nhà máy trên toàn quận và có khả năng giành giật quyền lực với Huyện ủy và chính quyền đến nơi. Bọn này đã chiếm được con dấu chính quyền ở cấp tỉnh, bắt chước theo phong trào của các công nhân nổi dậy ở Thượng Hải, những người đã giành được quyền lực từ tay chính quyền Thành phố trong một chiến dịch được gọi là Bão tháng Giêng.

Các em tôi đang trong kỳ nghỉ đông. Bệnh trạng của ông ngoại ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Chỉ Hoa và Tân Hoa tự lo cho bản thân khá tốt, nhưng Mai Nguyên vẫn vô tư lự chơi ngoài đường phố. Vào ban ngày, nó chơi bên ngoài với những đứa tiểu tử khác. Vào buổi tối, nó lượn quanh nhà hát, hy vọng được vào trong để xem qua vở kịch cách mạng “Đèn lồng đỏ”. Một tối nọ, tôi tìm thấy nó đang ở gần nhà hát, chơi một trò chơi nông thôn với những người bạn của nó. Xếp hàng dựa vào tường, chúng sẽ ép sát mình về phía góc tường và hét lên, "Này, này, trườn cho ấm! Này, này, trườn cho ấm!" Ai mà không chịu được việc trườn tới góc tường, đứa bé đó sẽ bước ra và đi về cuối hàng. Có trò chơi nào trên thế giới này còn ngớ ngẩn hơn thế không? Tức giận, tôi bắt nó về nhà. Đêm hôm sau tôi lại thấy nó lại tiếp tục chơi trò dở hơi ở đó.

Tôi thường mang pháo cho các em tôi khi mỗi khi vào dịp Tết, nhưng tôi không còn tiền sau chuyến du lịch. Tôi duyệt qua chợ pháo của thị trấn, nơi những người buôn pháo giành khách ầm ĩ và thậm chí đã có cuộc xung đột về giá. Một người bán hàng đã tiếp thị pháo của mình bằng cách ném vài tép vào vách chuồng lợn. Một chủ hàng khác diễn trò "phi hỏa," hay một chiếc hỏa tiễn nhỏ phóng lên bầu trời, để lại một vệt khói xanh đằng sau, rồi phát nổ với các tia pháo màu cam. Một người đàn ông với giọng Chính Định đứng trên lưng xe ngựa và kêu to:​

Diêm sinh rồi đến lưu huỳnh,
Tiếp theo than củi, rồi mình trộn ra,
Khắp nơi pháo nổ rộn nhà,
Xuân về Tết đến, bách gia phát tài.
Đại Đường truyền thống không phai,
Pháo từ Chính Định, chuẩn bài nên mua!

Một người khác ở cửa hàng đối diện đáp lại:

Ai đi từ bắc chí nam,
Sơn Đông nơi đó, pháo làm khéo tay!

Hai người liền đốt một dây pháo dài màu đỏ bằng điếu thuốc đang cháy của mình, và giơ lên cao bằng một cây sào tre. Tiếng pháo nổ lách tách như súng máy, bắn những mẩu giấy và làn khói xanh mờ tóe ra xung quanh. Mùi thuốc súng tràn ngập trong không khí. Bọn trẻ con vây quanh các dây pháo đang nổ, cố gắng giành lấy những quả pháo chưa cháy để lấy cho mình một vài mẩu pháo miễn phí. Tôi chợt thấy có hai đứa bé cực kỳ nhanh nhẹn, chúng đã thủ sẵn găng tay và che vành tai của mũ tai gấu quanh mặt để bảo vệ, đó là Chỉ Hoa và Tân Hoa.

"Hai đứa không biết làm thế là nguy hiểm sao?" Tôi mắng chúng sau khi những dây pháo đã cháy hết và trò nhặt pháo đã xong. “Mẹ có cho bọn em tiền để mua pháo đâu,” Chỉ Hoa cáu kỉnh nói. “Đôi khi mẹ thậm chí còn không cho ông ngoại đủ tiền để mua thuốc." Hai đứa có vẻ không vui trừ khi chúng nó mua được pháo. Tôi đề nghị cả bọn kiếm một số tiền nhỏ bằng cách nhặt giấy vụn trên đường phố để bán cho các tiệm đồng nát. Một cân giấy vụn có thể đổi lấy được ba xu, còn một quả pháo "song phi" nổ trên không chỉ có giá năm xu.

Tân Hoa thậm chí còn có một ý tưởng hay hơn: chúng tôi sẽ nhặt phế liệu đồng nát sắt vụn và những thứ rác rưởi khác do bọn Tư tưởng để lại khi chúng đập phá các lớp học ở trường trung học Linh Thọ. Ba anh em tôi đến trường và kiếm đầy hai giỏ lớn toàn kho báu, như là các bát nhôm vụn, chìa khóa bị cong, ổ khóa bị đập vỡ, đống dây điện bị rối, công tắc đèn hỏng, ống thiếc chứa kem đánh răng, chai rỗng… rồi bán hết cho tiệm đồng nát với giá hơn năm tệ. Sau đó chúng tôi mua pháo, một lọ thuốc viên anh túc - cam thảo để chữa ho cho ông ngoại, và bánh tiêu nhân thịt bò.​
 
19. NHỮNG KẺ XÔNG NHÀ ĐẦU XUÂN (tiếp)

Chúng tôi tiến hành công việc đồng nát béo bở này được vài ngày. Sau khi chúng tôi lục lọi trong tất cả các tòa nhà bị lục soát có thể tìm thấy được, chúng tôi bắt đầu thu thập giấy vụn. Nếu có người ở xung quanh, cả bọn chỉ nhặt rác từ đường phố. Nếu không có ai, chúng tôi sẽ bóc các áp phích từ các bức tường, lớp giấy dán dày khoảng mười lớp. Một ngày nọ, một nhóm Hồng vệ binh Tư tưởng bắt quả tang chúng tôi đang bóc những tấm áp phích vừa dán xong. Chúng tịch thu giỏ của anh em tôi và xô ngã xuống, đấm cho Chỉ Hoa chảy máu mũi. Đó là dấu chấm hết với hoạt động tận thu của ba anh em.

Anh Vệ Hoa về nhà vào lúc còn vài ngày trước giao thừa. Anh đã rời trường học một lần nữa để làm một chuyến Trường Chinh đến Diên An. Anh cho chúng tôi xem một bức ảnh anh ấy đang đứng trên Vạn Lý Trường Thành. Ở mặt sau, anh ghi một dòng thơ của Mao Chủ tịch: "Bạn không phải là anh hùng - cho đến khi leo lên Trường Thành." Anh về Linh Thọ với dáng vẻ gầy gò và nước da ngăm đen, với một bao hạt kê từ Diên An và một chai giấm nổi tiếng của tỉnh Thiểm Tây. Anh Vệ Hoa đã dành cả buổi chiều hôm sau để làm một chiếc đèn lồng Tết, từ thân cây cao lương và giấy màu. Khi ngọn nến bên trong được thắp sáng, sức nóng của lửa khiến cho một bánh xe dán đầy những bức tranh cắt giấy, có hình các danh tướng thời Tam Quốc, quay quay trông thật vui mắt.

Khi anh Vệ Hoa và tôi ra ngoài mua thức ăn vào sáng hôm sau, cho bữa cơm cúng Tết của gia đình, chúng tôi chợt thấy tờ thông báo được đăng trên mọi góc phố ở trung tâm thị trấn:

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của vị Lãnh tụ vĩ đại của chúng ta, Chủ tịch Mao và Nhóm Cách mạng Văn hóa Trung ương, phong trào Tháng giêng Bão táp đang lan tỏa, như một tiếng sét đang vang đến tai bảy trăm triệu dân, trên toàn cõi Tổ quốc thiêng liêng. Làn sóng mạnh mẽ của liên minh cách mạng và cuộc đấu tranh giai cấp vĩ đại đang cao trào tiến lên về phía trước. Tiếng kèn trống xung trận đã vang lên. Giữa thời cơ tuyệt vời này, chúng tôi, những người cách mạng nổi dậy của huyện Linh Thọ, xác định rằng thời cơ để giành chính quyền từ tay bọn tư bản, bè lũ phản cách mạng trà trộn trong Đảng bộ và chính quyền đã chín muồi. Để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử vĩ đại này, chúng tôi kêu gọi một cuộc mít tinh toàn huyện vào đêm giao thừa, nhằm bãi chức tên Cao Sơn Quỷ, kẻ theo chủ nghĩa xét lại phản cách mạng và theo chủ nghĩa tư bản bên trong Đảng, bắt hắn từ bỏ các chức vụ của mình cả trong và ngoài Đảng. Cuộc biểu tình sẽ được tổ chức trên sân tập của trường trung học Linh Thọ. Tất cả những người tham gia cách mạng đều được mời tham dự. Sự kiện trọng đại này sẽ mang đến cho nhân dân Linh Thọ một dịp Tết tràn ngập màu sắc cách mạng.

Nhân danh Cách mạng Văn hóa vô sản vĩ đại!


Tờ Thông báo được ký tên bởi lực lượng Hồng vệ binh Tư tưởng Mao Trạch Đông trường Trung học Linh Thọ, Tổng bộ Công nhân cách mạng của huyện, cơ sở giao liên nông dân cách mạng của huyện, và quân nổi dậy cách mạng của các phòng ban của chính quyền huyện.

“Thật lố bịch,” Tôi kêu lên. "Bọn Tư tưởng không thể kiểm soát cả huyện. Chúng nó có thể tuyên bố là có liên kết cách mạng với giai cấp công nông, nhưng trên thực tế chúng nó chỉ là một bọn học sinh vắt mũi chưa sạch."

"Dù có lố bịch hay không, anh thấy bọn này không phải dạng vừa," anh Vệ Hoa nói. “Hồng vệ binh khắp nơi đang noi theo hành động của giới công nhân Thượng Hải."

"Làm thế nào mà chúng nó có thể tổ chức một cuộc đấu tố lớn vào đêm giao thừa? Nó sẽ phá hỏng cả kỳ nghỉ lễ!" Tôi hét lên.

Đường phố lúc đó đầy rẫy những người nông dân đang hối hả sắm Tết, trong những chiếc áo khoác đệm bông màu đen dày cộm và khăn trắng trùm đầu, những bà nội trợ với những dây tỏi quấn quanh đôi vai của họ, những bà cụ có đôi chân bó ngồi trên xe cút kít chứa nửa con lợn bị xẻ thịt và những đứa trẻ đang ăn những que kẹo hồ lô. Một lão nông bị giật mình bởi tiếng hét, dừng lại nhìn chúng tôi chằm chằm.

Chúng tôi bỏ việc sắm Tết, về nhà và nói với ông ngoại về tờ thông báo. Ông vuốt bộ râu lưa thưa của mình và nói: “Ông không ngờ rằng phong trào này lại kéo dài lâu như vậy. Các cháu đừng bận tâm. Nếu bọn họ cách chức bố các cháu, chúng ta có thể quay về quê hương của mình. Các cháu có nhớ Đào Uyên Minh không? Ông ấy là một quan huyện trong thời nhà Tấn. Do thấy mình không thể làm quan nên đã từ chức mà về ở ẩn. Hay Bao Thanh Thiên của đời Tống, người phán quan bị thất sủng vì đã xử tử một người họ hàng của vua vì đã ngược đãi nông dân? Ông ấy cũng được vua ban phép về quê. Và dĩ nhiên, cả Hải Thụy nữa...”

“Cháu đã nói với bố rằng mình nên lánh về quê, nhưng bố không chịu,” tôi nói. "Ông ơi, thời thế đã thay đổi rồi. Ngay cả khi bố bị buộc phải từ chức, những bọn chống đối kia sẽ không để cho mình yên ổn mà đi."

Anh Vệ Hoa nói thêm: “Họ muốn tiêu diệt bố về mặt chính trị, tinh thần và thậm chí thể chất, kiểu như cưỡi trên lưng cọp vậy, nhảy ra là bị ăn thịt luôn đấy ông."

Ông ngoại im lặng suy nghĩ một lúc. Sau đó, ông nói, "Đáng nhẽ ra họ phải cho chúng ta một lối thoát, một con đường sống."

Vào ngày cuối cùng của năm cũ, ông ngoại uống vài viên thuốc anh túc - cam thảo và rời giường sưởi để xuống bếp nấu ăn sau bao tuần nằm liệt giường. Ông nấu một nồi thịt lợn hầm lớn, kèm với đậu phụ, rong biển, bắp cải và mì làm từ bột đậu xanh. Mùi thơm mê hoặc từ bếp tràn đầy sân.

Mẹ đã đưa Nhất Nguyên về nhà vào đêm hôm trước rồi chạy biệt ra ngoài mà không nói một lời nào. Tôi múc ra một bát thịt hầm cho đứa em gái với lượng nước hầm khiêm tốn. Chúng tôi đã gọi nó ấy là "chuyên gia ăn cái" bởi vì nó chỉ thích phần cái trong bát thịt hầm. Vì là đứa con cưng trong gia đình nên chúng tôi để nó ăn theo kiểu của riêng mình.

Chúng tôi chuẩn bị dùng bữa thì một nhóm người với những chiếc băng tay màu đỏ lao vào sân. "Có phải mẹ chúng mày đang ở đây?" một trong số họ hỏi. Đó là phụ tá của bố tôi, Tần Mão, tên chăn bò trước đây. Bây giờ hắn là người đứng đầu nhóm nổi dậy ở chính quyền quận, vì hắn tự xưng là kẻ bị "áp bức" nhiều nhất.

"Không có." Tôi trả lời cộc lốc vì không muốn tiếp chuyện với kẻ phản bội này.

"Không? Không phải ả đã đưa em gái của chúng mày đến đây tối qua sao? Ả nói rằng sẽ trở về phòng của mình, nhưng rốt cuộc lại chẳng thấy đâu."

"Ông muốn gặp mẹ chúng tôi để làm gì?" Anh Vệ Hoa hỏi lớn tiếng.

"Không phải việc của chúng mày. Chỉ cần cho bọn tao biết ả giờ đang ở đâu."

"Đừng lãng phí lời của ông với bọn này nữa!" Tên đội trưởng bọn Tư tưởng Đại Ban, với vết sẹo trên má đỏ rực, xông lên trước nhóm. "Mấy tên khốn theo tư bản này chỉ biết nghe bằng ăn đấm! Lục soát nhà của tay Sơn Quỷ này! Con vợ ô uế của hắn không thể mọc cánh được!" Những tên khách không mời tràn qua cửa, khua vỡ những chiếc bát trên bàn và làm đổ món hầm thơm ngon của ông ngoại ra khắp sàn nhà. "Đây là cái thứ rác rưởi gì đây?" Vừa nói Đại Ban vừa dùng gậy chém vào chiếc đèn lồng của anh Vệ Hoa cho đến khi nó rơi xuống sàn và bị giẫm nát thành từng mảnh.

“Vệ Hoa! Kiến Hoa!" Ông ngoại nhìn chúng tôi, ánh mắt phẫn nộ đằng sau cặp kính của ông như lặng lẽ bảo chúng tôi phải giữ bình tĩnh. Một thằng bé khác lấy một chiếc gương trên tường và giơ nó lên để bọn kia thấy hình ảnh của nữ diễn viên ba lê ở mặt sau. "Nhìn này, chúng nó vẫn chứa chấp những thứ tư sản tục tĩu như vậy đây!" Nói xong nó liền đập tan chiếc gương xuống sàn nhà. Nhất Nguyên bắt đầu khóc. "Ngừng sủa ngay, đồ chó con!” Đại Ban hét lớn. “Mày sủa vì con chó bố của mày sắp mất chức à?" Nhất Nguyên càng khóc to hơn.

Những kẻ đột nhập đá tung đồ đạc ra xung quanh. Chúng mở tung ra tủ quần áo, đổ bừa các ngăn kéo và lục lọi các thùng các tông nơi chúng tôi để quần áo và giày cũ. Những đứa lục soát căn phòng phía sau đắc thắng bước ra với một chồng sách cũ kỹ: Tam Quốc Diễn Nghĩa, Hồng Lâu Mộng, tự truyện của Lý Tự Thành, mô tả quá trình ông lật đổ triều đại nhà Minh, và một tiểu thuyết đời Thanh về tham nhũng và bất công, “Hai Thập niên kỳ lạ”. Đó là những cuốn sách mà ông ngoại đã nuôi dạy chúng tôi. "Tịch thu chúng làm bằng chứng!" Đại Ban ra lệnh. Ông ngoại có vẻ hoảng hốt trong ánh mắt nhưng không nói gì. Những kẻ nổi loạn rời đi với những cuốn sách, chửi thề vì không tìm thấy mẹ chúng tôi. "Lũ cướp! Quân vô lại!" Anh Vệ Hoa và tôi chửi đổng sau khi chúng đi khuất dạng.​
 
Top