Có Hình Phận Hồng Vệ Binh - Thân phận con người Trung Quốc trong Cách mạng Văn Hóa Vô sản

Phận Hồng Vệ Binh (Born Red – tác giả Cao Nguyên – 1987 - NXB Đại học Stanford)



Lời bình (1)

Câu chuyện của Cao Nguyên dẫn chúng ta đến những năm đầu của Đại cách mạng văn hóa Vô sản của Trung Hoa. Có thể so sánh với nhật ký của Anne Frank, về những khoảnh khắc đậm tính nhân văn trong một thế giới không có tình người. Trải nghiệm không bao giờ quên được của Cao, với vai trò là một Hồng Vệ Binh (HVB) trong Cách mạng Văn hóa (CMVH) dẫn chúng ta theo một vòng xoáy chính biến, hàng triệu thanh niên trở thành những sứ giả của sự bất ổn. Qua con mắt của Cao, chúng ta sẽ thấy những mưu đồ chính trị, lợi dụng lý tưởng cao đẹp ban đầu, để rồi xâu xé lẫn nhau, suýt đưa nước Cộng hòa Nhân dân vào một cuộc nội chiến mới, một cơn thịnh nộ mà không chuyên gia phân tích nào có thể lý giải được.

Khởi nguồn của CMVH có thể được coi là bắt đầu khi Mao Trạch Đông nhận ra là CHND Trung Hoa vào giữa những năm 1960 đang chệch hướng khỏi con đường XHCN. Mao đã luôn là lãnh tụ tối cao từ khởi đầu cuộc nội chiến hồi những năm 1930, và là người vạch đường lối cho giai cấp nông dân vô sản đấu tranh dành quyền lực. Sau khi giành quyền lực, Mao không chỉ là chủ tịch nước, mà còn coi bản thân là người bảo vệ những tư tưởng, lý luận mà cuộc cách mạng đem lại.

Một cuộc khảo sát vào giữa những năm 1960 do Mao chỉ đạo, đã đem lại một kết quả không vừa ý. Đời sống văn hóa nhân dân còn phụ thuộc vào truyền thống và không theo cách mạng. Giáo dục cho tầng lớp trí thức được coi trọng hơn tầng lớp công nông. Nội bộ Đảng tham nhũng và ích kỷ. Những chương trình phúc lợi mang lại nhiều lợi ích cho thành thị hơn nông thôn, trong khi vùng nông thôn được coi là cái nôi của cách mạng Trung Quốc. Nếu làm ngơ các điều trên, Mao sợ rằng chủ nghĩa tư bản sẽ một lúc nào đó lén lút, âm thầm trở lại, và cuộc đấu tranh công nông trở nên vô nghĩa.

Gia đình của Cao trở thành một trong những mục tiêu đầu tiên của CMVH. Bố của Cao, một lão thành cách mạng bị HVB tấn công và sỉ nhục tàn tệ khi mà cuộc CMVH bắt đầu. Ông bị phán tội để ý thái quá đến kinh tế gia đình mà bỏ quên đấu tranh giai cấp, bỏ quên nhiệm vụ của một quan chức nhà nước.

Trong lúc CMVH diễn ra, Mao thường xuyên tuyên bố rằng: “Không thể xây mới mà không đập bỏ cái cũ”, và nó trở thành kim chỉ nam cho sự hủy hoại văn hóa của Trung Hoa, và là sự buộc tội cho vô số nạn nhân. Mỉa mai thay, CMVH chỉ đập cái cũ khá nhiều, nhưng không xây mới thêm được chút nào. Một cuộc cách mạng được xây dựng bởi bạo lực và tính thù địch, thật sự đi chệch với ý tưởng và hy vọng chống lại chủ nghĩa xét lại của Mao.​




Lời nói đầu của Cao Nguyên

Một trong những thiệt hại mà CMVH đã đem lại cho tôi chính là quyển nhật ký của mình. Trong một cuộc ẩu đả tại trường trung học của tôi, giữa lúc hỗn loạn đó, nó đã không cánh mà bay. Nên cũng có thể nói rằng những gì tôi cảm thấy, nhìn thấy, nghe thấy và nghĩ đến thời đại đó đã là dĩ vãng.

Những dòng dưới đây xin cam đoan là thật, và mỗi khi tôi nhớ lại chúng, cảm giác như mới ngày hôm qua, ngoại trừ những lời đối đáp, và tên của những người trong câu chuyện của tôi đều được đã được đổi tên khác. Với tên của mình, sau CMVH, tôi đã đổi tên từ Cao Kiến Hoa sang Cao Nguyên, âu cũng là có chút đặc biệt, vì tôi sinh ra ở cao nguyên tỉnh Hà Bắc.

Tôi xin gửi lời cám ơn và xin lỗi chân thành nhất đến những kiếp người đã trải qua cuộc CMVH, học sinh, thầy cô, giáo viên, công chức và gia đình mình.​

(Còn Tiếp)

Phần 1
Phần 2
Phần 3
Phần 4
Phần 5
Phần 6
Phần 7
Phần 8
Phần 9
 
Sửa lần cuối:
5. NGƯU QUỶ XÀ THẦN


Các đại tự báo dán kín 1 tòa nhà - Thượng Hải - 1966

Tờ Nhân Dân Nhật báo đã kêu gọi chúng tôi phải “quét sạch bọn ngưu quỷ xà thần”. Lớp trưởng Tào Lan và bí thư Đoàn của lớp, Tùng Phương, thống nhất là cần phải có hành động chống lại hai thầy Thẩm và thầy Lý. Bá Vương có vẻ hồ hởi nhất, nó gợi ý rằng chúng tôi nên lấy ý tưởng từ phong trào nông dân ở Hồ Nam thập niên 1920, dựa trên báo cáo của chủ tịch Mao. Trong báo cáo, những người nông dân đã bắt những tay địa chủ và bọn bá quyền tàn ác phải đội mũ lừa và diễu đi khắp phố.

Lớp chia ra làm hai phe, chủ chiến và chủ hòa. Phe chủ chiến lấy lọ mực, bút lông, giấy và xô keo, kéo nhau đến trước cửa tòa nhà giáo viên. Mỹ Hồ mang theo hai cái mũ lừa được làm từ giấy trắng, viền được gắn tua kiểu dành cho tang lễ, còn Bá Vương mang theo hai tấm biển trắng. Phe chủ hòa chúng tôi theo sau, thấy hai thầy bị lôi ra khỏi văn phòng và bị áp giải lên bục giảng. Thầy Lý kêu lớn: “Các em đang làm gì vậy?” Bá Vương nhại lại: “Đang làm gì ư? Chúng tôi đến đây để quét sạch bọn Ngưu quỷ và Xà thần các người!”. Cả bọn đội mũ lừa và đeo biển tên cho hai thầy. Thầy Lý đeo biển có dòng chữ “Tên phản động Quốc Dân Đảng và chó săn của Tưởng Kinh Quốc.” Còn của thầy Thẩm ghi: “Tên địa chủ ghê tởm và gián điệp của đế quốc.” Tôi cố gạt đi thiện cảm của mình với thầy Lý và tập trung vào các cáo buộc của thầy. Tấm áp phích mới nhất buộc tội thầy có mong muốn suy đồi, muốn khôi phục Quốc Dân Đảng. Có tấm áp phích còn ghi vào năm 1962, khi Tưởng Giới Thạch kêu gọi phản công vào đại lục, thầy Lý đã thử ướm lại bộ quân phục cũ.

Tôi được dạy rằng, giai đoạn Tưởng Giới Thạch cầm quyền là một trang sử tối tăm của Trung Quốc thời hiện đại. Thầy Lý đã đọc cho chúng tôi nghe tác phẩm “Vách đá đỏ”, nói về việc quân đội Quốc Dân Đảng và lính Mỹ đã tra tấn quân сộng sản tàn bạo ra sao. Tôi cũng nghe kể rằng Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch bị lạm phát, cao đến nỗi một cân tiền giấy không mua nổi một cân giấy trắng. Tồi tệ hơn là cảnh những người ăn xin xếp thành hàng, các dãy phố nhà thổ và các xác chết đóng băng trên phố. Cha tôi đã chiến đấu chống lại Quốc Dân đảng cả đời mình. Chúng tôi thề với bản thân mình rằng sẽ quyết không quay lại chế độ cũ nữa.

Những hình ảnh trên tái hiện trong đầu, tôi dần thấy căm ghét thầy Lý, cho dù một phần trong tôi vẫn mến thầy. Tôi nép mình vào một góc khỏi hội trường và tránh chạm mắt thầy, khi mà càng nhiều học sinh tham gia buổi đấu tố.

“Các em, có gì bức xúc hãy nói!” Thầy Lý nói lớn.

Bá Vương ra hiệu cho thầy dừng lại. Buổi đấu tố chính thức bắt đầu. Hai thầy đứng trên bục với mặt cúi gằm xuống. Lớp trưởng Tào Lan dẫn đầu đám đông hô lớn: “Đánh kẻ chạy tội, tha người thành khẩn!”; “Lão Lý, hãy khai ra những tội lỗi mà lão gây ra!”; “Tên Thẩm kia, thú tội hoặc là chết”; “Cách mạng Văn hóa muôn năm!”

“Nói mau!” Bá Vương hét vào mặt thầy Lý, “Ông đã giết bao nhiêu người trước khi giải phóng? Ông đã nghe lệnh Tưởng Kinh Quốc để tha hồ phạm tội đúng không?”. Đám đông ở dưới hô to: “Nói!”

“Thầy không giết ai cả!”, thầy Lý phân trần. “Lúc đó thầy đang canh gác nơi ở của Tưởng Giới Thạch, theo lệnh của Tưởng Kinh Quốc. Thầy chỉ huy một tiểu đoàn theo lệnh của Tưởng.”

“Ông đã giết bao nhiêu người lính сộng sản rồi?” Mỹ Hồ hét lớn trong cơn phấn khích.

“Không bao giờ. Thầy không ưa cơn khát máu của Tưởng Giới Thạch, đó là vì sao thầy đã đào ngũ với binh lính của mình, và đầu hàng quân giải phóng khi họ tiến vào Nam Kinh. Anh trai thầy vốn đã đào ngũ trước đó, có thể làm chứng. Ông ấy đang làm việc ở chính quyền tỉnh…”

Bá Vương cắt ngang: “Tên Lý này không thành thật, các bạn đang nghe những lời dối trá của hắn!”

“Đả đảo tên Lý!” Tào Lan hô lớn, tay giương nắm đấm, đám đông đằng sau bắt chước làm theo.

Đột nhiên, Bá Vương đổ xô keo làm từ khoai lang lên người thầy Lý rồi úp xô vào đầu. Thầy Thẩm run rẩy và cúi gập người xuống. Tôi chỉ mong thầy mau chóng nhận tội để qua thời khắc nhục nhã này, song điều trên là bất khả thi, vì thầy đang quá sợ nên cứng họng. Cánh học sinh bắt đầu đem hai thầy đi diễu hành quanh ký túc xá, và xô ngã hai thầy liên tục. Thầy Lý bị cái xô che mắt nên vấp ngã vài lần trên lối đi.​


Một buổi đấu tó các phần tử xấu - 1966

Hưởng ứng theo hành động cách mạng của lớp 85, các lớp khác bắt đầu tiến hành các buổi đấu tố và diễu hành. Tấm biển càng ngày càng lớn và nặng, còn mũ lừa ngày càng cao và kệch cỡm. Một số lớp gắn mấy viên gạch vào tấm biển để nó nặng thêm, khiến cho nạn nhân không ngẩng đầu lên được. Một nhóm học sinh làm một cái mũ lừa từ ngọn cây cao lương, cao đến mức chạm đến tầng hai của tòa nhà, để cho giáo viên chủ nhiệm đội. Cái mũ quá khổ đấy khiến cho học sinh phải cầm vài cái gậy để đỡ mũ mỗi khi làm trò diễu hành ông thầy xấu số.

Danh sách tố cáo ngày càng tăng lên, tấn công vào những tay phú nông, địa chủ, tư bản và tiểu tư sản, bọn phản động cả cũ và mới, những kẻ hữu khuynh, tay sai đế quốc và gián điệp… Cánh học sinh đóng vai trò công tố, thẩm phán và cảnh sát. Bất kỳ ai chối tội đều là kẻ nói dối.

Những hình thức trừng phạt ngày càng oái oăm. Một số học sinh cắt tóc giáo viên thành những hình tượng quái gở. Một kiểu phố biến là cắt tóc theo lối Âm-Dương, nửa đầu có tóc, nửa còn lại trọc. Có ý kiến rằng kiểu này là phỏng theo ý kiến của chủ tịch Mao về “Âm dương hòa hợp”. Tôi chợt nhớ về những kiểu nhục hình thời chế độ cũ, như là bôi tro trát trấu lên mặt, cạo đầu, xẻo mũi, hoạn.

Tại nơi đấu tố, cánh học sinh thường bắt giáo viên làm trò “máy bay phản lực”. Hai người đứng hai bên kẻ tội đồ, bắt hắn quỳ xuống kéo tóc về phía sau, hai tay bị bắt giang sang hai bên như kiểu máy bay. Chúng tôi thử làm với nhau, và trò này gây mỏi cổ và lưng kinh khủng. Dù vậy, một số đứa vẫn coi rằng nó còn nhân đạo chán so với những gì mà Quốc Dân Đảng và lính Mỹ đã tra tấn quân сộng sản tại nhà tù hợp tác Mỹ Trung ở Vu Bắc, Trùng Khánh, ví dụ như trong truyện “Vách đá đỏ” tả lại, nhiều phương thức khác như cắm dằm tre dưới móng tay, chích điện. Có học sinh còn bảo phải mạnh tay hơn. Xét cho cùng, chẳng phải đây là những tàn dư của bọn Quốc dân đảng và đế quốc Mỹ sao?

Tại một buổi đấu tố khác, Bá Vương và mấy đứa phe chủ chiến trong lớp chúng tôi bắt thầy Dương làm trò máy bay phản lực và cắt cho thầy quả đầu âm dương. Thế là mái tóc kiểu chủ tịch Mao của thầy đã đi tong. Tôi từng nghe thầy chăm chút mái tóc của mình như thế nào, như gội bằng nước lạnh vào buổi sáng và ăn hồ đào để cho tóc bóng mượt. Thầy để chúng tôi đụng vào mái tóc của thầy với vẻ mặt lạnh tanh. Sáng hôm sau, thầy biệt tăm biệt tích. Có tin đồn cho rằng thầy trốn về chỗ người thân. Hành động đó đã đến tai tổ công tác, và sau đó ra thông cáo rằng: Chúng tôi phải để mắt đến giáo viên mỗi khi đêm đến.

Gần như 200 giáo viên của trường chúng tôi không ai là không có mặt trên những tờ đại tự báo, và những ai có tên thì phải đứng trước đám đông mà thú tội. Sau khi tấn công những phần tử xấu, cánh học sinh bắt đầu nhắm tới những mục tiêu nhẹ nhàng hơn, kể cả những ai có gia cảnh tốt. Một giáo viên trẻ xuất thân trong một gia đình công nhân, bị chỉ trích là chú trọng việc dạy học hơn là đấu tranh chính trị, và một cô giáo khác có gia đình bần cố nông bị chỉ trích vì đi giày cao gót, vì đã phản bội giai cấp của mình.​
 
Sửa lần cuối:
 
Phần 5 (tiếp)

Chúng tôi dần không còn mục tiêu, và mọi sự chú ý đổ dồn vào thầy hiệu phó Lâm Thịnh, một người thầy tri thức, ăn nói nhẹ nhàng. Một bài phê bình được viết kín bức tường, tố cáo về tư tưởng tư bản và xét lại của thầy. Bằng chứng là trong bản báo cáo về những kinh nghiệm dạy học 40 năm của thầy, tất cả những bài viết đều được khởi đầu bằng một bài thơ hoặc một trích đoạn điển tích. Mỗi chứng cứ đều kèm theo một vài lời bình luận của học sinh. Nổi bật nhất là bài thơ “Hoa mận đỏ trên tường” của nhà thơ thời Nam Tống Diệp Thiếu Đường:

Một ngày xuân thuở xưa, thi sĩ thời Nam Tống, Diệp Thiếu Đường đến thăm vườn nhà bạn mình. Không thấy bạn đâu, nhà thơ liền tức cảnh mà viết nên một bài thơ mà lưu truyền đến hậu thế bây giờ:

Vườn xuân cửa đóng im lìm
Ta đành quay gót, trong tim trĩu buồn,
Bỗng xem cành mận trước sân,
Trổ hoa đỏ rực, sắc xuân khó tìm.

Tôi đọc bài thơ này khi còn nhỏ, nhưng đến giờ tôi mới nhận ra rằng nó có giá trị với nền giáo dục Trung Quốc hiện đại. Vì sao một cành hoa mận sắc đỏ đó lại đem cảm hứng cho thi sĩ Diệp? Có lẽ sắc đỏ của hoa làm nổi bật hẳn so với mọi cây cối khác trong vườn. Sự kỳ dị của cành hoa khiến nó đã gây ấn tượng với chính nhà thơ.

Trong giáo dục cũng thế, ta nên để ý những học sinh ưu tú có thành tích nổi bật và nâng đỡ các em thành tài. Chỉ có thể thế mới giúp chúng ta cạnh tranh với các trường điểm khác toàn quốc, và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đào tạo những nhân tài cho tổ quốc.



Những lời phê bình kèm theo nói rằng bài luận này được thầy Lâm Thịnh dựa trên quan điểm của giai cấp bóc lột trong chế độ cũ. “Hắn ta muốn nền giáo dục chỉ phục vụ một tầng lớp tinh hoa nhỏ bé, trong khi những trẻ em của giai cấp công nông ngoài kia bị bỏ ngỏ!”.


Một buổi đấu tố phần tử xấu - Cáp Nhĩ Tân - 1967

Một bài luận khác của thầy Lâm, kể về quá trình người cha đã đưa thầy đi ăn học. Các lời phê bình cho rằng thầy đang cố khoe mẽ về gia thế địa chủ của bản thân. Một lời trong đó viết: “Trong xã hội cũ, những kẻ từ tầng lớp bóc lột như tên Lâm Thịnh kia, có thể đến trường để học, còn con cái của công nhân và bần nông thì sao? Các em không dám nghĩ đến điều đó!”.

Mặc dù tôi khá thích cách hành văn của thầy Lâm, tôi không thấy có gì là sai với luận điểm của những lời phê bình. Gia thế của thầy bắt nguồn từ địa chủ đã là quá đủ để buộc tội. Công cuộc đấu tố thầy Lâm đã trở thành một tâm điểm lớn, vì quyền lực của thầy chỉ đứng sau bí thư Đinh và thầy hiệu trưởng Ngô Độc. Thầy Ngô có lẽ là một mục tiêu khó nhai, vì ông thầy đã đến Bắc Kinh để học chính trị trước khi trận động đất diễn ra, và không ai biết lúc nào thầy quay về. Bí thư Đinh thì được tổ công tác che chở nên không thể đấu tố được.

Chỉ trong 24 giờ, các tư tưởng xét lại của thầy Lâm Thịnh với ngành giáo dục trở thành tâm điểm chính trên các bức tường của nhà trường. Đoàn công tác thông báo sẽ mở một cuộc họp, khi đó thầy hiệu phó sẽ thú nhận toàn bộ tội trạng của mình. Đoàn công tác cũng lên lịch trông coi giáo viên, và vào buổi tối trước cuộc họp định mệnh đó, chúng tôi lục tung căn phòng dụng cụ thể dục thể thao lên, lấy gậy bóng chày, kiếm gỗ và giáo nhọn để vũ trang. Tôi cảm giác giống như hồi mình chơi trò tìm gián điệp ở tiểu học.

Lăm lăm trên tay thanh kiếm gỗ, tôi đi xuyên màn đêm giữa khu vực dành cho giáo viên. Khi đi qua phòng nào có ánh đèn, tôi cố thò vào trong, song đa phần các cửa sổ đều kéo rèm hoặc che kín bởi báo chí nên không đem lại kết quả gì. Mỗi phòng của thầy Thẩm không che. Thầy nằm trên giường, tay trái giữ điếu thuốc, tay phải sờ vào phần tóc bị xén trụi.

Tôi đến chỗ bậc thang mà Mỹ Hồ đang ngồi và dừng lại nghỉ. Đúng là một đêm dài và nhiệm vụ thì chán chết đi được. Chúng tôi đành ngủ gật, và trong lúc đang mơ màng, tôi nghe thấy một tiếng “bụp” như thể cái ghế đổ xuống. Sáng sớm hôm sau, tôi giật mình thức dậy khi nghe thấy đám đông đang nháo nhào ở phía đối diện sân bóng rổ. Một học sinh ngang qua nói với chúng tôi:

“Các ông chưa biết à? Tên hiệu phó Lâm kia treo cổ tự vẫn rồi.”

Chúng tôi liền chạy tức tốc đến phòng của thầy. Thi thể thầy lúc này đang bận một chiếc áo xanh, và xung quanh thầy là những người đã cắt dây trói. Kính của thầy lúc đó rơi trên sàn nhà. Cô y sĩ Dương tức tốc lao vào phòng để lấy mạch.

Thầy Lâm là người chết thứ hai mà tôi chứng kiến tận mắt. Hồi còn học tiểu học, tôi đã tham dự một cuộc đấu tố công khai ở thị trấn, kết cho một tên địa chủ án tử hình vì tội cưỡng hiếp một cô gái xuất thân từ một gia đình bần nông. Sau khi tuyên án, một chiếc xe ngựa đã đưa hắn đến nơi hành quyết trên một ngọn đồi phía sau tòa thị chính. Tôi đã háo hức để xem cuộc hành hình ra sao nên đã đi theo hàng nghìn người đến đồi. Sau đó, tôi bỗng do dự và dừng lại phía sau cho đến khi có tiếng súng nổ ra. Khi tôi đủ dũng khí để lên chỗ hành hình, cái xác tên địa chủ đã nằm cạnh một cái hố. Một lão nông khom xuống, múc óc ra khỏi sọ bằng tay, gói chúng trong một chiếc lá lớn và mang đi.

Cái xác tên địa chủ đó với tôi là một người xa lạ, nhưng xác của thầy Lâm lại là người mà tôi đã quen. Tôi nhớ lại lần gặp mặt duy nhất của tôi với thầy, trong kỳ học đầu tiên của tôi tại trường. Cô Văn đã mắng tôi vì đã làm chảy nến và nghịch sáp lỏng trong giờ học. Khi tôi bướng bỉnh không muốn dừng lại, cô bắt tôi lên gặp thầy hiệu phó. Tôi đến văn phòng của thầy, cứ đinh ninh là sẽ ăn mắng. Nhưng không, thầy Lâm pha cho tôi một tách trà nóng và giảng luôn một bài học về cách người ta làm nến. Sáp này là sản phẩm phụ của quá trình hóa dầu, và các công nhân tại giếng dầu Đại Khanh đã lao động cực nhọc để có được lượng dầu đó. Thầy giảng xong, tôi cảm thấy rất có lỗi vì đã làm lãng phí những cây nến tốt. Tôi liền quay trở lại lớp học và xin lỗi cô Văn.

Là một trong những đứa đã gác đêm hôm trước, tôi không khỏi chạnh lòng với việc mình góp phần vào cái chết của thầy Lâm. Ít ra, tôi nên kiểm tra tiếng động mà mình đã nghe thấy khi trên đà ngủ gật. Mặt khác, đứa học sinh gác ngay bên ngoài cửa phòng thầy cũng nói là không nghe thấy gì. Ngay cả với lính gác kè kè sát giường mình nằm, sớm muộn gì thầy Lâm cũng sẽ tìm ra cách quyên sinh. Thầy làm tôi nghĩ đến câu ngạn ngữ, "Chết vinh còn hơn sống nhục."

Lớp chúng tôi được phép ngủ nguyên buổi sáng vì đã làm nhiệm vụ canh đêm. Vào buổi chiều, chúng tôi đã tham dự một cuộc họp trước tòa nhà Giáo viên. Bí thư Đinh và các thành viên khác trong Đảng ủy của trường đứng ngoài hiên. Bằng một giọng đều đều, trưởng đoàn công tác tuyên bố: "Phần tử chống Đảng Lâm Thịnh đã xa rời Đảng và quần chúng nhân dân rồi tự sát. Thay mặt Huyện ủy, tôi xin thông báo rằng phần tử chống Đảng Lâm Thịnh sẽ bị khai trừ khỏi Đảng và các chức vụ của hắn ta trong và ngoài Đảng sẽ bị đình chỉ. Chúng tôi kêu gọi tất cả các em học sinh cách mạng, hãy đứng lên và chỉ trích hành động phản cách mạng của tên Lâm Thịnh này, về đường lối xét lại trong giáo dục của hắn." Vài tiếng hô theo khẩu hiệu chói tai theo liền sau đó.

Thầy Lâm được chôn cất vào sáng hôm sau. Vợ con thầy từ chối đến dự đám tang, nói rằng họ muốn cắt đứt mọi quan hệ với phần tử chống Đảng này. Một số giáo viên và học sinh tình nguyện hộ tống thi thể về nơi an táng.

Tôi nhìn linh cữu thầy lần cuối trong sân trước tháp chuông, và thầy nằm trên tấm liệm, trong một chiếc quan tài bằng gỗ mỏng manh. Mắt thầy nhắm lại, và ai đó đã đeo lại kính cho thầy. Chúng tôi đắp cho thầy một chiếc tấm khăn liệm khác, rồi đóng đinh vào nắp quan tài sau đó những đứa khỏe khênh quan tài lên xe đẩy. Chúng tôi lên đường, với một học sinh đi đầu cầm khẩu hiệu và vài đứa khác kéo xe theo sau. Tiếp đó là một vài sinh viên và giáo viên cúi đầu đi bên cạnh. Những người khác, những ai không hào hứng để vác theo một tấm khẩu hiệu hay không có tâm trí để buồn – có tôi trong đó – lẽo đẽo theo sau ở một khoảng xa xa. Thầy Lâm được chôn cất bên ngoài bức tường phía bắc của thị trấn, bên cạnh ngôi mộ đầy cỏ của ông anh học sinh đã chết đuối ở sông Hô Đà. Biển hiệu được cắm trên đỉnh mới gò chôn cất, có tiêu đề: "Phần mộ của tên chống Đảng Lâm Thịnh”.


Một nữ giáo viên bị cắt tóc trong một buổi đấu tố -1966
 
Sửa lần cuối:
Cám ơn bạn đã cho tôi sống lại 1 thời sôi nổi nhiệt huyết.
Tôi đã từng cháy hết mình cho đ vinh quang.
Tôi từng mơ mình cùng với mấy ông bà tổ trưởng tổ dân phố chỗ tôi, trói mấy em phò ruột của mình lôi ra đấu tố.
"Tiêu diệt các thành phần tệ nạn xã hội"
"Tư tưởng HCM muôn năm"...
 
6. PHONG BA BÃO TÁP

Tháng Bảy về, nguy cơ động đất dường như đã qua và những cơn mưa hè đã bắt đầu. Chúng tôi tháo dỡ lán của mình và quay trở lại ký túc xá. Bây giờ dường như chắc chắn rằng, sẽ không có kỳ thi cuối năm hay tuyển sinh đại học, không có cuộc thi thơ, không có lễ tốt nghiệp và không có kỳ nghỉ hè. Cách mạng Văn hóa được ưu tiên hơn mọi thứ khác.

Anh Vệ Hoa và tôi đã bỏ qua chuyến thăm nhà ở huyện kế bên chừng hai tháng liền. Cả hai anh em đều bận tham gia Cách mạng Văn hóa với các bạn cùng lớp, bởi vậy mà chúng tôi cũng hiếm khi gặp nhau. Khi tôi tình cờ gặp anh, trên đường đi hoặc trong nhà ăn, tôi thường hỏi những câu hỏi mà tôi không dám hỏi bất cứ ai khác, ví dụ như cuộc Cách mạng Văn hóa này sẽ đi đến đâu hay nó sẽ kéo dài bao lâu nữa.

"Hãy để mọi chuyện tùy tự nhiên," anh Vệ Hoa đáp lại. "Không chỉ Lão Tử từng nói như vậy. Chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác cũng nói như vậy. Chú không để ý trong lớp học chính trị à?”

"Bọn em chỉ mới bắt đầu biết về phép biện chứng ngoài giờ học thôi," tôi nói. "Chủ tịch Mao dùng phép biện chứng. Em nghe Người từng nói: một điều có thể hiểu thành hai, và cái xấu có thể được chuyển hóa thành cái tốt.”

Với cái chết của thầy Lâm, những mục tiêu tai tiếng nhất còn lại là những giáo viên như hai thầy Thẩm và Lý. Nhóm chủ chiến thẩm vấn hai người gần như hàng ngày và giam hai thầy trong văn phòng để viết bản tự kiểm điểm. Bá Vương đem đến cho chúng tôi xem các báo cáo thường nhật về các phiên thẩm vấn. Thầy Thẩm đã thú tội rằng mình đã phá trinh một đứa ở khi còn sống trong gia đình địa chủ của mình. Thầy Lý vẫn bác bỏ những cáo buộc giết hại bất kỳ người Сộng sản nào.

Một số học sinh bắt đầu nói về việc liên kết với các phong trào nổi dậy ở những nơi khác. Tình cờ thay, tôi lại gặp hai phần tử nổi dậy đến từ Bắc Kinh, đang thực hiện một nhiệm vụ bí mật trong trường. Đó là hai nữ sinh, tôi chưa từng gặp, đang rửa dép của họ tại một cái vòi nước trong sân trước tháp chuông. Tôi yêu cầu hai chị xưng tên, và tôi nghe thấy hai cái tên quen thuộc. Họ đã tốt nghiệp từ trường tôi hai năm trước và hiện là sinh viên đại học, một người ở đại học Bắc Kinh, người kia ở Thanh Hoa. Tên của họ nằm ở gần đầu danh sách được viết bằng mực vàng giấy đỏ, trong bản danh sách tôi đã thấy trong ngày đầu tiên nhập học.

Hai chị nói với tôi rằng tổng bộ lực lượng chống đối của họ ở Bắc Kinh đã gửi hai người trở lại trường cũ để thúc đẩy tiến trình cách mạng. "Phong trào ở đây thật là yếu ớt," một chị nói, "Tại trường Bắc Đại (đại học Bắc Kinh), lực lượng chống đối các chị, dưới sự lãnh đạo của Nhiếp Viên Tử, đã đuổi Bí thư Đảng ủy ra ngoài, và đoàn công tác phải rút lui." Nhiếp Viên Tử, một giảng viên triết học trẻ tuổi, là người đã dán tấm áp phích đầu tiên tấn công ban giám hiệu nhà trường.

Hai chị hỏi tôi có biết Phương Bảo không. tôi đã nói với họ rằng tôi và anh Phương là những bạn thân, mặc dù tôi đã không nói chuyện với anh ấy, kể từ khi anh ấy lời xin lỗi vì cả gan đấu tố bí thư Đinh. “Phương Bảo là con người theo đuổi cách mạng thực sự đấy," chị từ Thanh Hoa nói. "Anh ấy đã bị đoàn công tác đàn áp. Anh ấy giống như Khải Đại Phu ở bên trường Thanh Hoa, bị đoàn công tác trường cấm đoán." Và thế là tôi đã thêm Khải Đại Phu vào danh sách những tấm gương Cách mạng Văn hóa cần phải nhớ. Hai chị thúc giục tôi kêu gọi các bạn cùng lớp hỗ trợ anh Phương Bảo. “Em sẽ theo sát tình hình” tôi trả lời như vậy.

Chủ tịch Mao đã không xuất hiện trước công chúng được vài tháng, rồi đột nhiên vào giữa tháng 7, Chủ tịch đã bơi một quãng đường dài dọc sông Dương Tử. Đoàn công tác tại trường chúng tôi đã hưởng ứng sự kiện này, bằng cách tổ chức một chuyến dã ngoại của trường bên sông Hô Đà. Chúng tôi xếp hàng theo lớp và đi bộ trong một giờ, qua thị trấn và ra khỏi cổng nam để đến bờ bắc của con sông. Hầu hết các nam sinh đều mặc quần đùi thể dục, còn các bạn nữ thì mặc quần đùi và áo phông, vài người trong trường chúng tôi có mang những bộ đồ bơi thực sự.

Phù sa và đất cát từ dãy núi Thái Hành Sơn theo sông đã lấp đầy trên đường đến biển Bột Hải, tạo nên những bãi cát trắng giống như dải ruy băng, trải dọc hai bên bờ xa ngút tầm mắt. Xen lẫn là những mảng cỏ dùi cứng cáp, có bộ rễ nhánh cắm sâu xuống dưới cát để sinh chồi mới. Tôi đã có thói ăn cỏ dùi, cũng như món cỏ ngựa, trong Ba Năm khó khăn. Rau mầm cỏ rất ngon, và rễ thậm chí còn tốt hơn. Sau khi chèo quanh vùng nước nông, tôi cúi xuống cạnh một đám cỏ dùi để nhổ lên mấy rễ cỏ để về ăn.

Ai đó đã gọi tên tôi. Té ra là anh Phương Bảo đang nằm gần đó. Ngực anh trông giống như một tấm ván giặt và trắng như cát. "Chú đã đọc bài thơ mới của Mao Chủ tịch chưa?" anh ấy hỏi tôi. Tờ Nhân dân Nhật báo hôm đó đăng bài thơ có nhan đề "Bơi lội" trên trang nhất. Bên cạnh đó là một bức ảnh chụp Chủ tịch Mao, mặc áo đại cán, đứng trên thuyền và vẫy tay. Một bài xã luận kèm theo, kêu gọi mọi người rèn luyện bản thân trước phong ba bão táp của đấu tranh giai cấp.


Mao Trạch Đông bơi trên sông Trường Giang - 1966

Tôi đã học thuộc lòng tất cả 37 bài thơ đã xuất bản của Mao Chủ tịch, bao gồm cả bài này. Tôi ngâm lại những dòng mà tôi đặc biệt thích:

Vượt qua bão táp phong ba

Qua sông Dương Tử, đâu là khó khăn?

Nếu như thần Phật giáng trần,

Đất trời thay đổi, các thần hãi kinh!


Anh Phương nhìn tôi với vẻ tán thành. “Bài thơ mới ra của chủ tịch Mao rất đáng khích lệ," anh gật gù. "Đó là một thông điệp cho giới trẻ chúng ta. Nó tượng trưng cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng." Đôi mắt của anh lấp lánh sau cặp kính. Anh ấy có vẻ vui nhất vào những lúc nói về cách mạng.

“Cha của anh em mình và tất cả những thế hệ đi trước chúng ta đã dành cả đời chiến đấu cho cách mạng,” anh tiếp tục. “Lớp trẻ cách mạng chúng ta có nghĩa vụ chiến đấu vì nghĩa lớn. Dù nước ta đang bị đế quốc Mỹ và bọn xét lại Liên Xô bao vây, bọn phản động từ các nước khác và bọn Quốc dân đảng ở Đài Loan uy hiếp, chúng ta không hề nao núng. Vì mối nguy hiểm lớn nhất đến từ những kẻ thù ẩn nấp bên trong chúng ta. Cách mạng Văn hóa sẽ thanh lọc chúng!”

Anh Phương Bảo phóng mắt tới một nhóm người đang đứng trên bãi sông. Họ là thư ký Đinh, hai người đàn ông tron g tổ công tác và cô Quách, cô đang vận một bộ đồ bơi màu đỏ tươi bắt mắt. Hầu hết các giáo viên đã ở lại ký túc xá, nhưng cô Quách, với tư cách là một trong số ít những người trong sạch (chưa bị đấu tố) đã đến hưởng ứng sự kiện. Anh Phương nói: “Tên bí thư Đinh đang cố ngăn chúng ta vạch mặt những kẻ thù của cách mạng, hắn chắc chắn đã đồng lõa với đoàn công tác nhằm chuyển sự chú ý của cánh học sinh chúng ta đến Lâm Thịnh, một tên địch tầm thường. Chúng ta chắc chắn sẽ vạch trần những thủ đoạn của chúng."

Tôi hỏi anh Phương rằng anh đã nấp ở đâu từ lúc viết bản kiểm điểm. "Anh chỉ ở trong phòng ký túc xá của mình, đọc về Mác, Lênin và Chủ tịch Mao,” anh nói. “Anh sắp hoạt động công khai rồi, hai chiến sĩ cách mạng từ 2 trường Bắc Đại và Thanh Hoa đang giúp phe ta." Tôi đã không kể với anh ấy về cuộc gặp với hai chị kia.

“Cuộc đối đầu giữa học sinh sinh viên và các đoàn công tác trong các cơ sở giáo dục ở Bắc Kinh đang cao trào," anh Phương nói tiếp. "Những chiến sĩ cách mạng thực thụ muốn noi theo đường lối của Chủ tịch Mao và vạch trần những kẻ thù giấu mặt trong Đảng, trong khi các tổ công tác kia muốn che giấu chúng. Điều tương tự đang xảy ra ở trường chúng ta. Đừng quên rằng trường ta là một trong 4 trường điểm của tỉnh. Bọn đế quốc và xét lại luôn có thể tìm cách cài đặt gián điệp ở những nơi trọng yếu nhất. " Lối nói chuyện của anh Phương khiến tôi nhận ra rằng anh là một ví dụ hoàn hảo về sự thống nhất của các mặt đối lập, mà chủ tịch Mao đã giải thích trong bài viết "Về các mâu thuẫn và xung đột". Bề ngoài thì nhợt nhạt, khẳng khiu và là một tay mọt sách, nhưng trong lòng anh lại là môt con người nhiệt thành với cách mạng.

Nói chuyện một lát xong chúng tôi về lớp của mình. Quần đùi của tôi đã khô khi chúng tôi đến cổng phía nam thị trấn. Thư ký Đinh, cô Quách và ba thành viên trong tổ công tác đạp xe đi qua chúng tôi. Đồ bơi của cô Quách vẫn còn ướt. Cô trông hạnh phúc và thoải mái hẳn, so với hình tượng mỏng manh trên lớp học.

Vào cuối tháng 7, trường tôi đã tham gia cuộc biểu tình toàn quốc, ủng hộ cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ. Mọi người tập trung bên ngoài tòa nhà giáo viên để nghe thông báo trực tiếp từ Bắc Kinh, nơi một triệu người đã tụ hợp tại Quảng trường Thiên An Môn. Đứng đầu là chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ đọc diễn văn, tuyên bố rằng: "Bảy trăm triệu người Trung Quốc sẽ là đồng minh mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam, và lãnh thổ rộng lớn của Trung Quốc sẽ là hậu phương an toàn cho nhân dân Việt Nam.” Chúng tôi cũng tổ chức các buổi hoạt động ngoài trời riêng. Lạ thay, tổ công tác đã chọn anh Phương Bảo để thay mặt cánh học sinh phát biểu.

Bài hùng biện của anh Phương dường như truyền cảm hơn bao giờ hết sau một thời gian bị kìm nén: “Bọn đế quốc Mỹ là nguồn gốc của mọi cuộc chiến tranh trên thế giới!", anh hét lên. "Chúng ta đã giáng hết đòn này đến đòn khác vào bọn Mỹ, nhưng chúng vẫn ngoan cố thực hiện âm mưu thâm độc nhằm thôn tính Trung Quốc. Chúng ta đã đấy lùi bước chân của chúng ở Triều Tiên. Chúng ta đã bắn hạ hai máy bay U2 của chúng. Chúng ta đã quét sạch vô số tàn lính Quốc dân đảng đang cố đổ bộ lên bờ biển phía nam của đại lục với sự hỗ trợ của thủy quân lục chiến Mỹ. Nhưng bọn đế quốc Mỹ vẫn chiếm đảo Đài Loan quý giá của chúng ta. Dưới sự chiếm đóng của Mỹ, đồng bào ta trên Đài Loan sống trong cảnh khốn cùng. Đàn bà con gái thường bị lính Mỹ bắt cóc và hãm hiếp trong những chiếc xe jeep chạy bừa bãi. Cánh đàn ông ở Đài Loan thường bị lính Mỹ lợi dụng làm bia đỡ đạn.”


Máy bay U2 của USAF

Khi anh Phương kết thúc bài phát biểu, khán giả phía dưới đã hô vang theo những lời cuối cùng: “Đả đảo đế quốc Mỹ! Chống lại bọn Mỹ và cứu trợ Việt Nam! Giải phóng Đài Loan!" Chúng tôi hô to liên tục và cùng nhau diễu hành vào thị trấn để tham gia cùng với nhân dân, tạo nên một cuộc biểu tình. Hôm đó là ngày mở phiên chợ, họp vào thứ năm hàng tuần ở thị trấn. Đông đảo nông dân từ vùng nông thôn xung quanh đang đến thị trấn để bán nông sản, hay đi mua sắm, xem kịch hát địa phương, hoặc chỉ ngắm cảnh. Họ hòa vào dòng người đang biểu tình trong thị trấn, trên tay lăm lăm biểu ngữ và biển báo.

Cuộc biểu tình tập trung tại ngã tư nơi hai con đường chính của thị trấn giao nhau, phố Tứ Hòa, dọc theo hướng bắc nam, và phố Vĩnh Thắng, dọc hai hướng đông tây. Chúng tôi quây thành một vòng tròn lớn, tạo ra một sân khấu ngoài trời, nơi trường học của chúng tôi đã tổ chức một buổi trình diễn về chủ đề, "Chống đế quốc Mỹ và cứu trợ Việt Nam.” Mỗi lớp đã chuẩn bị một bài hát, khiêu vũ, hoặc tiểu phẩm của riêng mình. Lớp chúng tôi làm một tiểu phẩm có sự tham gia của Mỹ Hồ, Bá Vương và Nhị Xú. Bá Vương đóng vai một lính Mỹ, Nhị Xú là một phi công Mỹ và Mỹ Hồ, riêng gia đình nó có một người anh đang làm cố vấn trong một đơn vị pháo phòng không ở miền Bắc Việt Nam, đóng vai một thủy thủ người Mỹ. Ba đứa đều đội mũ giấy và mũi giấy sơn đỏ. Từng đứa đọc lời thú nhận tội ác tày trời ở Việt Nam. Cuối tiểu phẩm, ba đứa đều ném cả mũ và mũi sơn đi, đổi vai thành dân làng Việt Nam, và hét lên khẩu hiệu chống Mỹ.

Những nông dân ngoài thị trấn đều thấy phấn khích trước trò kịch từ đâu chui ra. Việc buôn bán trên vỉa hè gần như dừng lại và ngã tư trở nên tắc nghẽn hoàn toàn khi anh Lôi Đỉnh, một trong những nghệ sĩ biểu diễn xuất sắc nhất của trường trung học Chính Định, xuất hiện trong trang phục Chú Sam để ngâm một bài tình ca. Trong một giọng trầm với văn phong mộc mạc, anh chế giễu giới tư bản Mỹ vì sự tham lam và độc ác của chúng, trên nền nhạc từ đôi dép đồng anh đeo kêu lách cách. "Bọn tư bản Mỹ tắm trong sữa hoặc đổ xuống biển, trong khi những người nghèo khổ đang chết đói!" ông nói. Khán giả nông dân cười ồ và bàn tán với nhau một cách hào hứng. Đến cuối buổi trình diễn, họ đã hô khẩu hiệu cùng với chúng tôi.

Đêm đó, có người loan tin báo động đến mọi phòng trong ký túc xá để họp khẩn. Chúng tôi vội vã mặc quần áo trong bóng tối, vì không được phép bật đèn, và tiến về Cổng Nam. Tổng thư ký của Đoàn Thanh niên trường, chị Đường Hồng, thông báo rằng chị ấy đã nhận được lệnh khẩn cấp, cần mọi người quyên góp để chi viện cho tiền tuyến Việt Nam. Tôi đã quyên góp chiếc chăn của mình, cộng với hai hào mà tôi tìm thấy trong túi của mình. Mấy đứa khác thì quyên góp các thứ khác nhau, từ quần áo đến màn chống muỗi và hộp cơm thiếc. Quá trình quyên góp diễn ra trong gần một giờ. Sau khi xong việc, chị Đường Hồng nói với chúng tôi rằng đó chỉ là một cuộc diễn tập để xem khả năng sẵn sàng chiến đấu của chúng tôi. Với cái nhìn mãn nguyện, chị yêu cầu chúng tôi lấy đồ đạc và quay trở lại ký túc xá để ngủ.​
 
Sửa lần cuối:
Lời bình (3)



Khruschev và Kennedy - 1961

Đến giữa những năm 1960, các sự kiện trong và ngoài nước đã khiến Mao đi đến kết luận rằng nếu không có biện pháp dứt khoát, các cuộc cách mạng XHCN sẽ biến chất theo hướng xét lại. Mao Trạch Đông, trên thực tế, rất khó can thiệp vào chủ nghĩa xét lại của Liên Xô, ngoài việc tạo ra một chiến dịch tuyên truyền trên trường quốc tế nhằm chống lại "chủ nghĩa Сộng sản nửa mùa của Khrushchev" và "Chủ nghĩa sô vanh cường quốc" của người Nga, một nỗ lực mà những người đồng chí thân cận nhất của Mao, trong ban lãnh đạo ĐCSTQ, đã nhiệt tình hưởng ứng. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, Mao Trạch Đông vẫn sử dụng quyền lực và uy tín của mình để ngăn chặn làn sóng của chủ nghĩa xét lại. Giải pháp ở đây chính là Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản, cho dù sau này, một số đồng chí thân cận nhất của ông cuối cùng sẽ trở thành mục tiêu. Chỉ khi những người theo chủ nghĩa xét lại bị loại bỏ, Mao Trạch Đông tin rằng Trung Quốc có thể tiếp tục hành trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa Сộng sản.

Khi đó Cách mạng Văn hóa được tạo ra nhằm dọn đường cho một xã hội bình đẳng hơn và có sự đóng góp của nhân dân. Thông qua đấu tranh chính trị quần chúng và cải tạo tư tưởng, bộ máy quan liêu tư sản sẽ được thay thế bởi nền dân chủ vô sản, tư lợi cá nhân được thay bằng chí công vô tư, và tinh hoa văn hóa được thay bằng nghệ thuật đại chúng. Việc tái cấu trúc chính trị triệt để sẽ phân phối lại quyền lực nhà nước, và việc điều chỉnh lại lưu thông hàng hóa sẽ làm giảm đáng kể sự bất bình đẳng trong thu nhập, chênh lệch kinh tế vùng và khoảng cách kinh tế giữa thành phố và nông thôn. Một cuộc cách mạng như vậy, được hứa hẹn là sẽ kích thích tăng trưởng năng lực sản xuất của quần chúng nhân dân, và mở một cánh cửa dẫn đến một kỷ nguyên mới của sự thịnh vượng cho toàn xã hội. Lý tưởng này, được hoàn thiện hóa trong mọi khả năng, là điều đã thu hút những người ủng hộ giai đoạn đầu của Cách mạng Văn hóa, cả ở Trung Quốc và nhiều bên quan sát ở hải ngoại, hay đơn thuần là những người bị mê hoặc với tư tưởng Mao Trạch Đông.

Mao Trạch Đông có hai động lực khác để phát động Cách mạng Văn hóa. Đầu tiên là mối quan tâm về giới trẻ trong nước. Mao tin rằng giới trẻ chỉ có thể trở thành những người thừa kế xứng đáng của cách mạng, nếu chính họ tham gia vào việc thực hiện công cuộc cách mạng. Nhận thức này rất quan trọng, bởi vậy trong giai đoạn đầu của Cách mạng Văn hóa, việc đấu tranh trong các cơ sở giáo dục và tạo ra lực lượng Hồng vệ binh từ giới học sinh sinh viên được ưu tiên, và đó là một trong những lực lượng chính của Mao trong cuộc đấu tranh chống lại bộ máy quan liêu của Đảng.



Mao Trạch Đông, Lâm Bưu và Hồng Vệ Binh - 1967

Thứ hai, mặc dù Cách mạng Văn hóa là một cuộc đấu tranh về ý thức hệ, nhưng nó cũng là một cuộc tranh giành quyền lực. Với hậu quả từ Đại nhảy vọt, Mao Trạch Đông đã tự nguyện rút lui khỏi công việc chính trường hàng ngày trong Đảng, thay vào đó chọn tập trung vào vấn đề về ý thức hệ và các chính sách vĩ mô hơn. Nhưng đến năm 1965, Mao cảm thấy bị các nhà lãnh đạo khác trong Đảng thờ ơ: Mao chỉ hiện hữu với tư cách là Chủ tịch của Đảng và học thuyết chính trị của mình chỉ coi là kim chỉ nam của Đảng, và hơn nữa, ban lãnh đạo phớt lờ lời khuyên của Mao và hạn chế quyền hạn của ông. Bởi vậy, Mao Trạch Đông xem Cách mạng Văn hóa như một công cụ mà qua đó, ông sẽ thiết lập lại sự thống trị của cá nhân mình trong chính trường Trung Quốc.

Bản thân cả hai nguồn động lực này của Cách mạng Văn hóa, được cho là đều bắt nguồn từ mối lo của Mao với chủ nghĩa xét lại: giới trẻ không được giác ngộ và các nhà lãnh đạo đang coi thường Mao, đó là những mối nguy mà ông tin rằng đang dần tạo ra một nền tảng để hệ tư tưởng tư sản lây lan, dẫn dắt Trung Quốc trên con đường quay lại chủ nghĩa tư bản.
 
7. KẺ ĐỒI BẠI VÀ CÁI GIÀY RÁCH

“Hãy vạch ra những tội lỗi xa rời quần chúng nhân dân của ả Quách Bái!"


Tôi kinh ngạc khi thấy khẩu hiệu đấu tố này xuất hiện vào một buổi sáng, trên bức tường của tòa nhà Giáo viên. Cô Quách mà gặp rắc rối á? Cô là người giải đáp cho những khúc mắc của chúng tôi về các vấn đề chính trị, với lại tôi chưa bao giờ nghe cô ấy nói bất cứ điều gì để có thể bị nghi ngờ. Và hơn nữa, cô là người nhiệt huyết với Cách mạng Văn hóa nhất trong cánh giáo viên. Cô Quách đã hợp tác chặt chẽ với Đảng ủy trường và tổ công tác, về việc sắp xếp các hoạt động chính trị của chúng tôi trong vài tháng trước đó.

Tấm áp phích tố cáo rằng cô Quách đang che giấu thân phận của mình. Nội dung cho biết cô từng là con gái của một tay tướng phục vụ cho một trong những tên quân phiệt khét tiếng nhất dưới quyền Tưởng Giới Thạch, Diêm Tích Sơn. Tên Nghiêm này từng là tướng quân phiệt của tỉnh Sơn Tây trước khi đầu hàng chính quyền Quốc dân Đảng. Hắn đã tàn sát vô số người Сộng sản, và trong số các nạn nhân của hắn, có em Lưu Hồ Lan dũng cảm, đã bị bọn lính thuộc hạ băm nhỏ bằng máy nghiền cỏ khô. Theo lời cáo buộc, cô Quách đã đáp máy bay đến Thiên Tân cùng với cha vào đêm trước ngày Giải phóng, rồi ông ta đã trốn sang Đài Loan cùng với Tưởng Giới Thạch, để cô ở lại. "Ả Quách Bái cố tình ở lại hậu phương để phá hoại công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của chúng ta!" tấm áp phích buộc tội. “Thời gian vừa qua, ả đã núp bóng cờ Đảng để chống lại Đảng, không khác gì một con sâu phản động luồn sâu vào hàng ngũ chúng ta, để rồi chúng ta để ả đảm nhận nhiệm vụ quan trọng nhất, là giảng dạy chính trị cho thế hệ trẻ."​


Đấu tố tướng Tang Pha Nhân Tăng (Tsewang Rigzin), khu tự trị Tây Tạng - 1967

Một tấm áp phích liền kề ghi rằng: "Ả Quách là một con rắn độc cải trang thành một người phụ nữ xinh đẹp.” Nó còn cáo buộc rằng cô đã sử dụng một trong Ba mươi sáu kế, "Mỹ nhân kế", để chồng cô, một giáo viên dạy vật lý vốn xuất thân từ giai cấp công nhân, bị thoái hóa biến chất. Tấm áp phích kết thúc với dòng chữ: "Chúng ta phải bẻ gãy xương sống của con rắn độc này!” Tôi đã luôn nghĩ rằng cô Quách và chồng không hợp nhau, nhưng không phải vì lý do chính trị. Thầy ấy cao to và cường tráng, và thằng Tam Hỷ thường nói đùa rằng ông thầy này có thể dễ dàng đè bẹp người vợ mảnh khảnh của mình trên giường.

Những áp phích chỉ trích về cô Quách đã được ký tên bởi “Tất cả các học sinh trung thành với cách mạng của lớp thứ 35." Đó là lớp học của anh Phương Bảo. Hơn nữa, anh Phương đang dẫn đầu một cuộc tấn công mới vào bí thư Đinh. Kết quả là một tấm áp phích mới toanh buộc tội ông bí thư đang cố trấn áp Cách mạng Văn hóa, và kêu gọi cánh học sinh nổi dậy chống lại ông ấy.

Anh Phương bây giờ đã vững vàng hơn, cũng vì có những sự góp sức gần đây từ Bắc Kinh. Trần Bá Đạt, người thư ký riêng của Chủ tịch Mao trong nhiều thập kỷ, đã trở thành người đứng đầu Nhóm Cách mạng Văn hóa Trung ương để chỉ đạo phong trào. Các văn kiện và báo đài bắt đầu gọi phong trào là Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản, thay thế cho Đại Cách mạng Văn hóa Xã hội Chủ nghĩa. Đúng ý anh Phương Bảo, chính quyền trung ương đã kêu gọi các trường học trên toàn quốc lập ra Uy ban tiến hành Cách mạng Văn hóa riêng biệt để thay thế các tổ công tác. Điều đó đồng nghĩa những người che chở cho bí thư Đinh sẽ sớm biến mất khỏi trường.

Thư ký Đinh đã chuẩn bị từ trước, bằng cách treo tấm áp phích phê bình chính mình, với tiêu đề "Tôi xin trân trọng đón nhận sự phê bình từ giới học sinh và giáo viên của cách mạng." Ngay lập tức, cánh học sinh bắt đầu viết kín lề áp phích, cho rằng bí thư Đinh đang giở trò thanh minh. Những ai bảo vệ ông bí thư thì dán những tấm áp phích kêu gọi mọi người phải tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Những ai phản đối thì gọi những người bênh bí thư Đinh là "những thằng hề bảo thủ".

Khẩu chiến chính trị đang nóng lên, hòa vào tiết trời giữa hè. Một đợt nắng nóng đã bắt đầu nên trước khi đi ngủ, chúng tôi sẽ cởi trần trong bóng tối bên ngoài ký túc xá và dội những chậu nước lạnh lên đầu cho mát. Bọn con trai trong lớp tôi thường thức quá nửa đêm để nghe Bá Vương xàm xí. Nó thường nằm dài trên giường khỏa thân, để lộ lông mu và bắp đùi nở nang, và kể lại cho cả bọn nghe các sự kiện trong ngày. Vốn là phe chủ chiến trong chiến dịch chỉ trích giáo viên, thằng này kể cho chúng tôi những cáo buộc mới nhất mà bọn chủ chiến nhằm chống lại bí thư Đinh và cô Quách.

“Hôm nay bọn tao đã có một bước đột phá lớn trong việc thẩm vấn ả Quách kia", Bá Vương kể lại. "Ông Phương Bảo, cái ông mà là con trai của liệt sĩ ấy, dẫn đầu đoàn bọn tao xông vào văn phòng của ả. Sau đó đưa ả vào trong sân tháp chuông. Lúc đầu, ả còn ngoan cố chống cự, vì vậy nên mọi người phải kéo ả đi. Bọn tao ra lệnh cho ả hạ thấp cái đầu xuống và bảo ả ngoan ngoãn thú tội đi. Ấy mà ả còn cãi là không có tội và còn không chịu cúi đầu. Thế nên tao đã ấn đầu ả xuống, thú thật không khác gì một con lợn sắp bị giết thịt. Tao điên tiết, còn cho ả ăn mấy cái vả vì tội ngoan cố, mà tao có tát mạnh đâu, thế mà ả cũng ra vẻ yếu đuối mà vờ ngã cơ. Thế là lại phải ra lệnh bảo ả đứng dậy lần nữa. Rồi cả bọn thay phiên nhau ăn tối trong khi thẩm vấn ả. Bọn này cũng nhân đạo, đưa cho ả một ít thức ăn, nhưng ả đếch chịu đớp. Ả đích thực là một con quỷ cái cứng đầu, đến nỗi bọn tao suýt bó tay. Sau đó, ông Phương Bảo có một ý tưởng. Ông ấy bịa ra câu chuyện mà lão bí thư Đinh đã thú nhận rằng đã ăn nằm với ả. Sau đó á? Con quỷ cái này tin sái cổ và suýt ngã ra vì sốc! Thấy như thế là bọn tao đều biết đã có gì mờ ám rồi. Thế là lại bắt ả phải nói thật. May là cuối cùng ả thừa nhận là mình đang làm bồ nhí cho lão bí thư được hơn một năm rồi!"

Lời tuyên bố chiến thắng của Bá Vương khiến chúng tôi vô cùng ngạc nhiên. Một lúc sau, Tam Hỷ chủ động phá vỡ sự im lặng. “Thật không thể tin được! Ả Quách ngày nào cũng dạy bọn mình tuân thủ đạo đức xã hội chủ nghĩa, nhưng bản thân ả lại là một chiếc giày rách!”


Bắt đội mũ lừa - Thiên Tân -1966

"Tóc của ả rũ rượi và che hết cả mặt, lúc ấy trông ả giống như ma xó ấy," Bá Vương tiếp tục kể, "Tao tiếp túc bắt ả phun ra những gì còn giấu, nếu ả còn muốn được đối xử khoan dung. Thế là ả khai ra toàn bộ câu chuyện luôn. Đó là vào mùa đông năm 1964, tay bí thư Đinh đến nhà ả để bàn về Bốn Dọn dẹp. Tiện như vậy, hắn bắt đầu kể cho ả nghe về đời tư của hắn, đại loại như ca cẩm rằng hắn thấy cô đơn vì bà vợ đang bân việc cho Hội liên hiệp Phụ nữ ở xã khác. Ả Quách khai là muốn an ủi lão bí thư, mà có khi bọn tao nghĩ là ả ấy muốn sử dụng cái vốn tự có để giành được lợi thế chính trị. Thế là bọn gian dâm này đã làm một buổi hẹn hò. Một đêm tuyết rơi khi chồng của ả Quách đang đi họp, lão Đinh đi khập khiễng từ sân của ban giám hiệu đến sân tháp chuông, rồi nhảy bổ lên giường với ả Quách, cứ y như điển tích vua Sở gặp Vu nữ trong lúc mây và mưa ấy."

"Tao cá là lão Đinh thực sự đã đè bẹp ả Quách nát bét trên giường luôn!" Tam Hỷ chen vào.

Bá Vương say sưa kể, nó đang được thể với sự tò mò của chúng tôi: "Lời thú tội của ả Quách hấp dẫn đến nỗi bọn tao cứ thẩm tra liên tục để biết rõ đầu đuôi. Bọn tao hỏi ả, kiểu khi đang chung chạ với nhau thì nói những gì. Mặt ả đỏ bừng, mồm thì cứ lí nhí: “Chỉ là chuyện chăn gối thôi mà.” Khai thế mà cũng khai! Cuối cùng sau khi hỏi mãi, ả mới nói, “Tôi đã hỏi anh ấy, giữa tôi và vợ anh Đinh có hơn kém nhau gì không. Anh ấy nói chỗ đó của vợ anh ấy thì quá rộng trong khi của tôi thì chật và sướng chết được.” Bọn tao thực sự không nghĩ ả nói thế luôn. Lúc ấy cả bọn cũng thấy hơi ngại và dừng luôn cuộc thẩm vấn".​

"Thế đôi gian dâm đó mây mưa thường xuyên không?" Tam Hỷ hỏi luôn.

"Bất cứ khi nào có dịp," Bá Vương trả lời, "ông chồng của ả Quách có thể cao to, nhưng lại sợ vợ. Có khi ông thầy ấy biết mình là một kẻ mọc sừng nhưng không dám nói. Ả Quách thường đến nhà lão Đinh vì khu đó vắng vẻ hơn. Ả còn thú nhận rằng một đêm đông nọ còn chạy đến đó bằng chân trần trong tuyết."

"Đến chim trĩ còn không sợ rét khi muốn phối mà nhỉ?" Tam Hỷ ví von.

Bá Vương nói thêm rằng phe chủ chiến đã lên kế hoạch lôi bí thư Đinh ra ngoài vào ngày mai, và đưa đôi ngoại tình đi bêu ở trung tâm thị trấn. Khi tôi ngủ thiếp đi, nó vẫn thao thao bất tuyệt, xen lẫn là mấy câu xàm của Tam Hỷ.

Sáng hôm sau, khắp trường chi chít những tấm áp phích mới về bí thư Đặng và cô Quách. Anh Phương Bảo và những người phe chống đối trong nhóm anh chắc hẳn đã viết chúng cả đêm qua. Ông bí thư Đảng ủy bị coi là suy đồi về mặt đạo đức và phản động, một kẻ đồi trụy và theo chủ nghĩa xét lại. Cô giáo dạy chính trị của chúng tôi là một chiếc giày rách, một con chim trĩ cái thèm phối và một gái điếm, một kẻ ngoại bang và một con rắn độc. Một áp phích nói rằng các học sinh cách mạng thuộc phe chống đối đã bắt giữ và thẩm vấn bí thư Đinh ngay trong đêm, và ông ấy đã nhanh chóng thú nhận tội lỗi của mình. Tấm áp phích ghi rằng "Tên bí thư Đinh Di, tên phản động biến chất, tội đồ của chủ nghĩa xét lại và tình nhân có tư tưởng xa rời quần chúng nhân dân, Quách Bái" sẽ được giương lên ở đầu đoàn diễu hành vào chiều hôm đó.​
 
Sửa lần cuối:
7. KẺ ĐỒI BẠI VÀ CÁI GIÀY RÁCH (tiếp)

Trong sân của ban giám hiệu ở góc tây nam của khuôn viên trường, cánh học sinh đang lục soát văn phòng của bí thư Đinh và ném sách ra khỏi cửa sổ. Các vế đối đã được dán xung quanh khung cửa. Câu đầu tiên ở phía bên phải ghi, "Ăn, uống, ỉa, đái, ngủ," và câu đối ở phía bên trái liệt kê năm nguyên tố khí trơ, "Helium, neon, argon, krypton, xenon." Dòng chữ phía trên cửa ghi, "Tính trơ trẽn là bản chất của nhà ngươi!" Tất cả các câu này là một cách bóng gió chế giễu ông thư ký, rằng ông lười biếng và vô tích sự. Tuồng chữ trông giống như của anh Vệ Hoa, nhưng tôi không thấy anh ở đó. Lát sau, tôi mới bắt gặp anh đang dán một tấm áp phích có tựa đề "Đảng ủy hãy cút đi, chúng ta tự tiến hành Cách mạng được!" trước tòa nhà Hiệu trưởng.​



Diễu đi đấu tố - Phúc Kiến - 1966

Tôi hỏi anh rằng có phải anh là tác giả câu đối trên, và anh ấy gật đầu. Tôi nhắc anh về việc bố mẹ đã luôn nói với chúng tôi rằng, hạn chế tham gia vào những việc khó chắc chắn. "Anh đã nghĩ kỹ rồi," anh Vệ Hoa quả quyết, "anh định dành câu đối cho cánh cửa phòng giáo viên chủ nhiệm, nhưng bọn bạn cùng lớp lại bảo rằng dán nó ở đó thì lãng phí quá, nên mang nó đến chỗ của lão bí thư Đinh. Dù sao, chú có thấy mọi chuyện giờ đã chắc như đinh đóng cột rồi chứ? Tổ công tác mới đã đến để ủng hộ những học sinh chống đối và đang giúp đỡ chúng ta, nhằm chuẩn bị một cuộc triển lãm về cuộc đời thối nát của tên Đinh Di kia."

"Nhưng tổ công tác đó có hiệu quả không?" tôi hỏi lại anh, "em thấy tổ công tác không khác gì lũ châu chấu vào cuối thu, họ sẽ sớm được thay thế bởi một ủy ban Cách mạng được bầu chọn bởi mọi người trong trường.”

"Tất nhiên chẳng ai ngu ngốc đến mức bênh vực một cặp ngoại tình", Vệ Hoa nói. "Ở cái vùng này, ai cũng nghĩ ngoại tình còn tồi tệ hơn trộm cắp, hoặc thậm chí giết người. Nên các thành viên trong tổ công tác thay vì im lặng, thì giờ lại đang ủng hộ cuộc đấu tố chống lại tên Đinh Di một cách hợp pháp luôn. Nó cũng làm cho nguồn cung làm áp phích dễ dàng hơn, vì tổ công tác vẫn phụ trách về hậu cần mà."

Buổi triển lãm bắt đầu sau khi bữa sáng kết thúc. Một biểu ngữ, được căng giữa hai cây liễu trước tòa nhà giáo viên, ghi rằng: "Kết quả đáng kinh ngạc của đấu tranh giai cấp." Tài sản bị tịch thu từ bí thư Đinh và cô Quách đã được trải ra theo dãy bàn dài: Những đống tem phiếu ngũ cốc, những xấp tiền mặt, thuốc lá, rượu ngon, một cái đèn bàn và một chậu lan. Bí thư Đinh đã sở hữu một chiếc radio nhãn hiệu Panda chứa tám bóng bán dẫn, minh chứng cho sự biến chất của bản thân. Cô Quách, bằng cách nào đó, đã có được một số lưỡi dao cạo do Mỹ sản xuất để dành cho chồng, bằng chứng buộc tội rằng Quốc Dân Đảng đã gài cô làm gián điệp.

Ấn tượng nhất là đống tem phiếu ngũ cốc kia. Một ông bí thư trường trung học thì lấy đâu ra nhiều thế? Phải chăng ông Đinh có rất nhiều thịt và rau củ để ăn nên đã không thể sử dụng hết khẩu phần ngũ cốc của mình? Hoặc có thể là tay đầu bếp trong trường, chuyên phụ trách việc ăn uống của cán bộ nhân viên, đã đưa cho ông bí thư thêm tem phiếu để hối lộ?

Tôi nghĩ đến phòng ăn dành riêng cho giáo viên và ban giám hiệu. Một lần vào mùa đông, sau mấy tháng ăn bắp cải nhạt phèo, tôi liếc qua cửa sổ phòng ăn giáo viên và nhìn thấy những miếng thịt lớn trong bát của giáo viên. Các giáo viên vẫn đương dùng bữa ở đó, mặc dù hầu hết họ bây giờ đều là thành phần xấu xa của xã hội. Ngay cả bí thư của trường cũng đã trở thành một con quỷ, tại sao họ phải ăn ngon như vậy?



Đấu tố tổng biên tập thời báo Hắc Long Giang - Cáp Nhĩ Tân - 1966

Càng nghĩ về phòng ăn nhỏ, tôi càng cảm thấy phải làm gì đó. Tôi bèn tập hợp Mỹ Hồ, Song Căn, Tôn Vệ và một số đứa cùng lớp nữa, rồi đưa ra ý tưởng đóng cửa bếp ăn. Cả bọn hưởng ứng nhiệt tình. Chúng tôi lấy những vũ khí của Hồng vệ binh: giấy, bút lông, mực và một xô keo, rồi tiến vào căn bếp nhỏ. Chúng tôi tìm thấy đầu bếp, ông Ngũ Hương, đang chuẩn bị bữa trưa cho giáo viên. Ông này có vẻ luyến ái đặc biệt với con trai. Một đêm khi tôi tình cờ gặp Ngũ Hương trong khuôn viên trường, ông ấy đã vòng tay qua rồi ôm chặt lấy tôi. Tôi hoảng hồn, gạt tay ông ra và bỏ chạy. Nhìn thấy nhóm chúng tôi, Ngũ Hương cười một cách bối rối và hỏi chúng tôi muốn gì.

"Phòng ăn giáo viên không được hoạt động nữa!" Tôi quả quyết.

"Các cháu đùa à?" ông nói. "Các cháu thế nào mà nghĩ ra được ý kiến như vậy?"

"Chúng tôi không nói đùa đâu! Đây là chuyện nghiêm túc, với lại ông không biết rằng tất cả thực khách trong phòng này đã trở nên tha hóa biến chất sao? Ông còn muốn tiếp tục phục vụ cho bọn ngưu quỷ xà thần kia à?"

"Không, dĩ nhiên là chú không dám, nhưng các cháu không thể đóng cửa nhà bếp này mà không có lệnh chính thức từ thư ký Đinh."

"Thư ký Đinh bây giờ cũng là một kẻ phản động!" Mỹ Hồ đay nghiến.

Ngũ Hương tỏ vẻ bối rối: "Không thể thế được!"

“Không tin ông cứ ra ngoài và tự mình kiểm chứng xem,” tôi nói.

Ngũ Hương trông thực sự lo lắng. "Chú sẽ ra sau nếu các cháu đóng cửa nhà bếp? Từ từ đã nào!" Nói xong ông ấy nhặt lên vài miếng chân giò heo hấp chín. "Thế này thì sao? Chú cho các cháu một ít chân giò và các cháu thôi nhé?"

“Ông Ngũ Hương,” tôi nói với giọng điệu nghiêm túc, “Bí thư Đinh có cả một đống tem phiếu ngũ cốc kia. Chúng đang được trưng bày bên ngoài làm bằng chứng cho tội lỗi của hắn. Phải chăng ông đã hối lộ hắn ta?"

"Không đời nào! Chú thề chú là người trong sạch, không liên đới gì đến tên bí thư cả!"

"Vậy tại sao vừa rồi ông lại muốn hối lộ chúng tôi?"

"Chú đã sai rồi, chú vô cùng xin lỗi." Ông Ngũ Hương cúi đầu lia lịa như gà mổ thóc.

“Tốt nhất là ông nên nói chuyện với bếp trưởng phòng ăn chung để xem liệu ông có thể làm việc ở đó không,” tôi nói. "Từ giờ trở đi, bếp ăn giáo viên này vĩnh viễn đóng cửa!"

Xử Ngũ Hương xong, chúng tôi bát đầu dọn dẹp. Đầu tiên chúng tôi mang tất cả bàn và ghế đẩu trong nhà ăn giáo viên đến phòng ăn chính. Sau đó, chúng tôi dán lên một số áp phích có nội dung tố cáo lối sống tư sản của giáo viên. Cuối cùng, chúng tôi đóng cửa lại và niêm phong lại bằng một chữ X làm bằng hai tấm giấy lớn, trên đó có viết "Bếp ăn đã bị đóng cửa bởi lực lượng trí thức cách mạng". Nhìn cánh cửa bị bịt kín, tôi cảm thấy hài lòng. Thật dễ dàng để hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng làm sao.

Buổi chiều, đoàn diễu hành bêu bí thư Đinh và cô Quách tiến qua Cổng Nam. Tin tức về sự suy đồi của ông bí thư đã tiếp tục xuất hiện suốt buổi sáng, và bây giờ chúng tôi đã có đối tượng thứ ba – chị Đường Hồng, tổng thư ký Đoàn Thanh niên trường, người mà chỉ mới hôm kia bày trò báo động giả về chiến dịch chi viện Việt Nam. Thư kí Đinh cũng đã nhận tội là đã ngủ với chị này. Một tấm áp phích, có tiêu đề "Một thân cưỡi hai ngựa", cáo buộc ông thư kí đã lên giường với cả hai người phụ nữ trên cùng một lúc.

Dẫn đầu đoàn diễu hành là thư ký Đinh, đội một chiếc mũ lừa cao chừng 5 mét, được trang trí bằng những miếng giấy cắt hình bộ xương, quái vật, đầu rùa và đầu bò. Một cái trống treo trên cổ ông ấy, một tay cầm dùi trống còn tay kia cố gắng đỡ chiếc mũ đang đung đưa. Cô Quách, đi bên cạnh, mặc một chiếc sườn xám dài bằng lụa màu hồng mà các học sinh đã tìm thấy trong tủ quần áo của cô, trên cổ cô đeo một đôi giày xa tanh màu đỏ sờn. Mái tóc dài ngang vai của cô bị cắt nham nhở, xen lẫn những mảng da đầu bị cạo. Trên tay cô cầm một cái chiêng và một cây gõ. Chị Đường Hồng mặc một chiếc đầm dài màu đen và đeo một đôi giày da cũ lủng lẳng quanh cổ. Tất cả những gì còn lại trên mái tóc của chị là một dải dài ở giữa, còn trên tay chị cầm một cặp chũm chọe. Ba người bị bắt phải chơi chiêng trống trong lúc đi diễu hành, dưới sự giám sát của các học sinh trong trường.

Lúc đó đương họp chợ trong thị trấn nên quanh đoàn diễu hành có rất đông khán giả. Đám đông trố mắt nhìn khi chúng tôi hộ tống ba phần tử xấu trên đường phố. Theo lệnh của phe chủ chiến, cả ba phải lần lượt hô vang trong lúc đi: "Tôi là Đinh Di, một tay ngưu quỷ xà thần." "Tôi là Quách Bái, và tôi đang đeo đôi giày rách." "Tôi là Đường Hồng, và tôi cũng đang đeo đôi giày rách." Tại ngã tư trung tâm, chúng tôi gặp một đoàn diễu hành khác, đó là một đoàn học sinh từ trường phổ thông khác, cũng đang áp giải nhóm ban giám hiệu trường đi bêu khắp thị trấn. Hai bên reo hò cổ vũ nhau.


Đấu tố Vương Quang Mỹ, phu nhân chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ - Bắc Kinh - 1966

Mặt trời chiếu xuống thị trấn cổ như một quả cầu rực lửa. Ba phần tử xấu ướt đẫm mồ hôi, bộ sườn xám bó sát của cô Quách ướt đẫm và dính chặt vào người, đến nỗi có thể nhìn thấy nội y của cô. Chiếc mũ lừa giấy của bí thư Đinh đã sũng nước và sắp rụng ra, trên khuôn mặt sưng húp đỏ tía tai của ông ấy, mồ hôi chảy đọng thành giọt.​
 
Sửa lần cuối:
8. TỐT, XẤU VÀ Ở GIỮA

Trong khi phong trào đấu tố giáo viên đang diễn ra, Vưu Linh càng ngày càng ít hăng hái tham gia cách mạng, và tôi gần như quên luôn cả sự hiện diện của nhỏ. Một ngày nọ, nhỏ đến gặp tôi, mặt như sắp khóc đến nơi. Nhỏ chưa bao giờ nhờ tôi giúp đỡ bất cứ điều gì ngoài các bài toán, nhưng bây giờ nhỏ thổ lộ rằng cần lời khuyên của tôi.

Chúng tôi đi dạo quanh cái ao sau trường. Vưu Linh nói với tôi rằng một số sinh viên y khoa, trong trường nơi bố của nhỏ dạy, từ tận Thạch Môn ở Hồ Nam, đã đến để khám nhà nhỏ ấy vào sáng hôm đó, và chỉ có bà nội ở nhà. Có người hàng xóm tốt bụng đã gọi Vưu Linh từ trường về, nhỏ liền chạy về nhà và phát hiện những tên khách không mời kia đang đọc nhật ký của bố, xong rồi chúng cuỗm đi quyển nhật ký.

“Cuốn nhật ký đó ghi lại toàn bộ cuộc đời của bố tớ, gồm cả khoảng thời gian ông ấy sống ở nước ngoài,” Vưu Linh kể với giọng run run. "Bọn sinh viên đó nói rằng bố tớ là gián điệp làm việc cho CIA. Tớ biết rõ rằng ông ấy không phải là gián điệp. Bố đã học tập rất chăm chỉ và chịu khó, ông ấy không bao giờ làm bất cứ điều gì khả nghi như gián điệp cả."

Tôi liền trấn an nhỏ: “Bọn họ không thể nói suông rằng bố cậu là gián điệp đâu, làm gì có bằng chứng." Tôi nói và cố gắng liên hệ với bản thân mình. “Tình hình hiện nay đang loạn hết lên. Tất cả các giáo viên ở khắp mọi nơi đang bị đấu tố. Nhưng không phải tất cả đều là phần tử xấu đâu. Sau một thời gian, mọi thứ sẽ lắng xuống thôi." Mẹ của Vưu Linh cũng gặp rắc rối, học sinh của bà tại trường trung học đã buộc bà dạy nhạc của tư bản. “Tớ lo quá.” Nhỏ nói và bắt đầu khóc. Tôi liền vắt óc để tìm ra một cách dỗ dành nhỏ. "Những người trong sạch bị oan ức cuối cùng sẽ được sửa sai," tôi nói, "Như trường hợp của bố tớ. Ông từng bị xử oan là lãnh đạo của một nhóm chống Đảng, nhưng sau đó uy tín của bố tớ đã được phục hồi."

Những tố cáo dành cho mẹ của Vưu Linh, có vẻ nhẹ nhàng, nên tôi bảo nhỏ đừng lo lắng. Còn trường hợp bố nhỏ, tôi khuyên nhỏ không nên kể với bất kỳ ai rằng, ông bị nghi ngờ là gián điệp của CIA. Nếu ai đó tìm ra, nhỏ nên nói rằng mình đã bỏ phận làm con với ông ấy. Nhiều con cái của các giáo viên bị đấu tố tại trường chúng tôi đã công khai chối bỏ phụ huynh mình, và một số thậm chí còn “vạch trần tội ác” của bố mẹ chúng. Đó là thực tế đang xảy ra.

Mọi người trong lớp tôi sớm biết về mẹ của Vưu Linh, nguồn tin từ những học sinh đã đến trường của bà để đọc áp phích đại tự báo. Tôi phải đồng ý với nhỏ rằng, chỉ là vấn đề thời gian trước khi những tin đồn về bố của nhỏ lan đến trường chúng tôi. Vưu Linh ngày càng lo lắng về nền tảng gia đình của mình. Lúc cái tên Đại Cách mạng Văn hóa vô sản thay thế cho cái tên Đại Cách mạng Văn hóa Xã hội chủ nghĩa diễn ra, nhỏ hỏi tôi có phải "vô sản" không bao gồm tầng lớp trí thức không. Cuối cùng, nhỏ quyết định tự tay giải quyết mọi rắc rối. Vưu Linh dán một tấm áp phích, một tấm viết kể từ hồi đấu tố Tam Gia Thôn, ghi rằng nhỏ sẽ cắt đứt quan hệ với bố mẹ mình, về cả mặt chính trị lẫn kinh tế. Hành động đó như trút được một gánh nặnh từ tâm trí nhỏ. Sau đó, Vưu Linh trở lại tham gia vào các cuộc mít tinh, tuần hành và hô khẩu hiệu như thường.

Sau nhiều cuộc mít tinh quần chúng đấu tố bí thư Đinh và cô Quách, chúng tôi đã chuyển sự chú ý sang công việc hình thành một Ủy ban Tiến hành Cách mạng Văn hóa. Tổ công tác đương nhiệm đã công bố các trình tự tiến hành. Mỗi lớp phải bầu ra một nhóm Cách mạng Văn hóa của riêng mình, bao gồm năm thành viên, những người sẽ đóng vai trò là đại biểu cho cuộc họp bầu ủy ban.

Lớp chúng tôi tập trung trong lớp để tham gia một phiên đề cử. Một vết nứt từ trận động đất kéo dài trên trần nhà phủ vữa thạch cao của phòng học, bức tường phía sau được bao phủ bởi các bài tiểu luận chỉ trích tội ác của bí thư Đinh và cô Quách Bái. Có tám người được đề cử,bao gồm một số cán bộ lớp: Lớp trưởng Tào Lan, Thư ký Đoàn Tùng Phương, lớp phó sinh hoạt Nhị Xú, Bá Vương, Vưu Linh và tôi.


Đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng đất

Ngay khi Tào Lan chuẩn bị phát phiếu bầu, Bá Vương đứng dậy, vẻ mặt hầm hầm: "Thưa đồng chí lớp trưởng," nó nói, "tôi phản đối việc đề cử Vưu Linh. Chính cô ấy đã thừa nhận trong tấm áp phích của mình rằng, bố cô ấy bị tình nghi là gián điệp của CIA, và tất cả mọi người đều biết mẹ cô ấy đang bị công kích vì dám dạy nhạc của tư bản. Tôi đề nghị chúng ta hãy hủy bỏ việc tranh cử của cô ấy."

Tôi giận dữ đứng dậy phản bác: "Bạn bè trong lớp đã đề cử Vưu Linh một cách công bằng. Mày không có cớ gì phải can thiệp!"

Bá Vương nóng nảy bật lại: "Chúng tôi đang bầu ra một ủy ban uy tín, để lãnh đạo chúng tôi trong cuộc Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản! Như Chủ tịch Mao đã nói, cách mạng không phải là một buổi dạ tiệc, đây là một vấn đề nghiêm túc. Nếu ai đó có phụ huynh là kẻ xấu lọt vào bộ phận lãnh đạo của chúng ta, thì ai sẽ chịu trách nhiệm?”

“Vưu Linh đã tham gia tích cực trong Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản,” tôi vặn lại. "Vì vậy cô ấy cũng đủ tiêu chuẩn như bất kỳ ai khác!"

"Thế đồng chí giải thích xem, lớp chúng ta nhiều học sinh gia cảnh thuần túy, tại sao phải đề cử một người có vấn đề về gia thế?" Bá Vương cười nhạt, "Chúng ta phải có lập trường vô sản vững chắc trong việc này, và điều chúng ta cần là một nhóm theo kiểu Công xã Paris, chứ không phải là một quốc hội tư bản. Nếu đồng chí nhất quyết tiến cử cô ấy, chúng ta sẽ phải hoãn cuộc bỏ phiếu này để xem xét vấn đề."

Vưu Linh lúc này vùi đầu nằm úp xuống bàn chỗ chúng tôi, và đôi vai nhỏ bắt đầu run run. Sau một vài phút, nhỏ đứng lên với đôi mắt đẫm lệ và nói, "Để cuộc bỏ phiếu có thể được tiếp tục, tôi xin từ bỏ vị trí tiến cử của mình." Tôi hơi thất vọng nhưng lại cảm thấy nhẹ nhõm với cách giải quyết nhanh chóng này. Lớp trưởng Tào Lan chấp nhận lời rút lui của nhỏ. Lớp phó thể dục thể thao, Song Căn được thay vào. Việc bỏ phiếu tiếp tục được tiến hành.

Chúng tôi đã điền vào các lá phiếu bầu của mình và bỏ chúng vào một chiếc hộp. Mỹ Hồ, dưới sự giám sát của Tào Lan, đã đọc tên trên mỗi lá phiếu trong khi một đứa khác kiểm phiếu trên bảng đen. Năm người đắc cử là Tào Lan, Tùng Phương, Nhị Xú, Song Căn và tôi. Bá Vương chỉ còn ngồi đó cau có.

Ngày hôm sau, 120 đại biểu, đại diện cho 24 lớp, ngồi cùng với các đại biểu từ ban giám hiệu và giáo viên, để thực hiện đề cử cho mười ba vị trí trong ủy ban Cách mạng Văn hóa, gồm mười học sinh, hai giáo viên, và một người trong ban giám hiệu. Lúc này, ban giám hiệu chính là tổ công tác, vì toàn bộ Đảng ủy của trường đã bị giải tán ngay sau đó với sự đấu tố của bí thư Đinh. Đối với các giáo viên, chỉ có một ít là không thuộc nhóm phần tử xấu, và chỉ có ba người hoàn toàn vô nghi. Vì vậy, bên giáo viên cử ba người đó làm đại diện. Một là người chồng bị cắm sừng của cô Quách. Ngay khi vợ ông thầy khai nhận đã không chung thủy, thầy ấy đã treo một tấm áp phích nói rằng rằng hai người không còn mối quan hệ gì nữa, rồi hôm sau thì ông thầy này đệ đơn ly hôn. Thầy ấy được khen ngợi vì đã có lập trường vô sản.

Cánh học sinh không gặp nhiều khó khăn trong việc tiến cử cho ủy ban, bởi vì trong chúng tôi có nhiều học sinh thuộc dạng ba tốt, các bí thư Đoàn và những người tham gia Cách mạng Văn hóa. Hầu hết các học sinh được đề cử đều từ năm cuối. Trong đó có anh Phương Bảo, hiện rất nổi tiếng trong giới HSSV cách mạng, vì vai trò đứng đầu của anh trong việc hạ bệ bí thư Đinh.

Cánh giáo viên thì khó hơn. Chồng của cô Quách được mọi người chú ý chỉ vì tai tiếng của bà vợ. Hai người còn lại chưa bao giờ làm bất cứ điều gì sai trái để bị đấu tố. Cuối cùng khi chúng tôi bỏ phiếu, một giáo viên mà tôi chưa bao giờ nghe đến tên trước đây, được bầu làm chủ tịch của ủy ban Cách mạng Văn hóa. Thầy ấy tên là Đặng Tăng, và đã tốt nghiệp Đại học Nhân dân ở Bắc Kinh, chuyên giảng dạy kinh tế - chính trị nâng cao. Với dáng vẻ thấp bé, chắc nịch, tính tình ít nói với chất giọng như bị nghẹt mũi liên tục, thầy là giáo viên trong sạch nhất còn sót lại ở trường chúng tôi. Thầy ấy có lý lịch trong sạch, xuất thân từ giai cấp vô sản, và hơn nữa thầy còn là Đảng viên. Giáo viên còn lại được bầu là một giáo viên vật lý.


Xử tử địa chủ - Tân Cương - 1949
 
Sửa lần cuối:
8. TỐT, XẤU VÀ Ở GIỮA (tiếp)

Mặc dù tổ công tác sắp rời đi, chúng tôi đã chọn trưởng tổ cho một vị trí quản lý còn thiếu, vì không còn ứng viên phù hợp. Chị ấy chúc mừng chúng tôi vì đã hoàn thành xuất sắc việc bầu ra Ủy ban Tiến hành Cách mạng Văn hóa và sau đó từ chức theo quy trình. Các thành viên trong tổ đã rời đi ngay chiều hôm đó, để đến trụ sở chính quyền huyện trong thị trấn. Mọi người tiễn họ ở cổng phía nam tường thành.

Nhiệm vụ đầu tiên của Ủy ban là mua một cái micro mới. Sau đó là tiến hành một cuộc đấu tố toàn trường với bí thư Đinh Di. Ông bí thư khốn khổ phải đứng trên sân khấu của khán phòng, với cái đầu cúi xuống gần ba tiếng đồng hồ, khi mỗi lớp cử một người đứng lên đấu tố. Cái chân què của ông ấy run rẩy không kiểm soát được, nên cuối cùng, thầy Đặng Tăng phải để ông ấy ngồi xuống. Một học sinh cuối cấp đập tay vào bục phát biểu mạnh đến nỗi chiếc micro mới toanh rơi ra khỏi giá đỡ. Thầy Đặng lao như tên bắn ra nhặt cái micro lên và kiểm tra kỹ lưỡng. Chúng tôi sớm biết được rằng thầy ấy có tính kiệt xỉ kinh khủng. Khi ủy ban yêu cầu phải có một con dấu chính thức, ông thầy này đã dành ba ngày để tìm kiếm nơi làm rẻ nhất trong thị trấn. Một số học sinh bắt đầu kêu ca rằng thầy Đặng quá keo kiệt và để ý quá nhiều đến những điều vặt vãnh, so với việc trở thành một nhà lãnh đạo cách mạng giỏi.

Vào giữa tháng 8, nhiều tin tức quan trọng hơn đến với chúng tôi từ Bắc Kinh. Hội nghị lần thứ XI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng vừa kết thúc. Bộ trưởng Bộ quốc phòng Lâm Bưu đã được bổ nhiệm làm phó chủ tịch Đảng. Hơn nữa, ông là phó chủ tịch duy nhất. Vị trí này trước đó đã từng có sáu người: Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức, Trần Vân, Lâm Bưu và Đặng Tiểu Bình. Hội nghị cũng đã ra thông cáo 16 điểm về Cách mạng Văn hóa, với những chỉ dẫn rõ ràng về những gì chúng tôi nên thực hiện trước. Nó nói rằng mục tiêu của cách mạng nên là những kẻ trong Đảng, những ai đang đi theo con đường tư bản, và một số cơ sở văn hóa giáo dục đã và đang truyền bá tư tưởng tư sản. Nó kêu gọi một cuộc đấu tranh chống lại Bốn cái cũ: tư tưởng cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ và tập quán cũ từ giai cấp bóc lột. Nó yêu cầu những người cầm quyền không nên áp dụng vũ lực đối với lực lượng trí tham gia cách mạng. Nó yêu cầu Cách mạng Văn hóa nên sử dụng lý trí chứ không phải bạo lực. Và nó cho biết, dù đại đa số cán bộ là tốt hoặc "tương đối tốt”, nhưng một số nhỏ vẫn ngấm ngầm chống Đảng và hữu khuynh.

Để hoan nghênh các quyết định của hội nghị, Ủy ban tiến hành Cách mạng của chúng tôi đã tổ chức một cuộc diễu hành lớn trong thị trấn, đi đầu là bởi các học sinh cầm bức chân dung khổng lồ của Mao Chủ tịch. Mỗi lớp đã thành lập ban nhạc diễu hành của riêng mình với trống, chũm chọe và chiêng. Chúng tôi diễu hành giữa những hàng cờ đỏ, vẫy những cuốn Hồng bảo thư của chúng tôi và hát:
Ta cùng sông núi hát vang,
Đảng ra thông cáo, sẵn sàng thực thi,
Như đèn soi sáng lối đi,
Ta cùng Văn Cách, cùng vì tương lai!


Sau đó chúng tôi hô to các khẩu hiệu đến khản cả cổ: "Kiên quyết ủng hộ mười sáu điểm! Nhiệt liệt truyền bá mười sáu điểm! Kiên quyết thực hiện mười sáu điểm! Dũng cảm bảo vệ mười sáu điểm!" và "Đập tan Bốn cái cũ! Ta cùng đập tan tư tưởng cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ và thói quen cũ!

Thậm chí còn thú vị hơn những thông báo từ Bắc Kinh là những tin đồn sau đó. Người ta nói rằng Chủ tịch Mao đã đích thân dựng một đại tự báo đầu tiên của mình. Với tiêu đề "Oanh tạc vào các trụ sở!," bài viết chỉ trích các tổ công tác đã đến khuôn viên các trường đại học ở Bắc Kinh vào 2 tháng vừa rồi để khủng bố và đàn áp những sinh viên chống đối.

Cuộc gặp gỡ của Chủ tịch Mao với một nhóm sinh viên Bắc Kinh, tại Quảng trường Thiên An Môn, là một sự ủng hộ mạnh mẽ và củng cố niềm tin của chủ tịch vào tuổi trẻ quốc gia. Chúng tôi luôn nhìn thấy ảnh của chủ tịch hàng ngày ở trên lớp, nhưng lần này chủ tịch đi giữa mọi người, cuốc bộ qua cầu Hoàng Thủy để nói chuyện với các sinh viên. Chủ tịch Mao khuyên họ phải tích cực tham gia vào các công việc của nhà nước, và tiến hành cuộc Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản đến cùng. Các học sinh từ trường trung học trực thuộc Đại học Thanh Hoa đã tặng cho chủ tịch một chiếc băng tay màu đỏ với ba chữ vàng được viết trên đó kiểu thư pháp: Hồng Vệ Binh. Các tờ báo đều có hình ảnh của Chủ tịch Mao đang đeo băng tay và vẫy tay, trông khỏe mạnh và tràn đầy sức sống.

Chủ tịch Ủy ban Đặng triệu tập một cuộc họp của các nhóm lớp Cách mạng Văn hóa, nhằm thảo luận về việc thành lập tổ chức Hồng vệ binh của riêng mỗi lớp. Mọi người quyết định rằng mỗi lớp sẽ thành lập tổ Hồng vệ binh của riêng mình dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Tiến hành. Chỉ có đặt ra hai điều kiện để thành lập tổ: tư tưởng tốt và tích cực tham gia phong trào.

Khi lớp chúng tôi gặp nhau để thảo luận về kế hoạch thành lập, Bá Vương cho rằng chỉ có các thành viên của Năm loại Hồng nhân (phe đỏ): công nhân, bần và trung nông, chiến sĩ cách mạng, cán bộ cách mạng và liệt sĩ cách mạng mới được phép tham gia Hồng vệ binh. Nó phản đối việc chấp nhận bất kỳ hạng người nào trong bảy hạng người xấu (phe đen): địa chủ, phú nông, phản động, phần tử xấu, hữu khuynh, phản quốc và gián điệp. Một lần nữa, tôi thấy mình lại mâu thuẫn với Bá Vương. “Chúng ta không có một phần tử xấu nào trong lớp chúng ta cả," tôi chỉ ra. "Tất cả mọi người đã tham gia phong trào ngay từ đầu, cùng kề vai sát cánh chiến đấu. Tôi nghĩ chúng ta nên để mọi người trở thành Hồng vệ binh."

Bí thư Đoàn Tùng Phương nói, "Mặc dù chúng ta không có phần tử xấu, song lại có một số nằm giữa đỏ và đen. Đó là những dấu hỏi lớn ở đây."

"Chúng ta không nên cho phép những thành phần như vậy!" Bá Vương nói.

"Tại sao lại không? Họ chẳng làm gì sai cả!" tôi nói.

"Bản thân họ có thể vô tội, nhưng bố mẹ họ không theo cách mạng. Khi cha ông chúng ta chiến đấu với quân Nhật và Quốc dân Đảng, bọn họ ẩn nấp và run rẩy như những con chuột nhắt!"

"Điều đó chẳng liên quan gì đến con cái của họ," tôi phản bác. "Chẳng phải tất cả mọi người trong lớp của chúng ta được sinh ra và lớn lên dưới Ngũ tinh Hồng kỳ sao? Tất cả chúng ta đều có một nền giáo dục xã hội chủ nghĩa."

Bá Vương bực dọc: “Chủ tịch Mao nói ai sinh ra trong giai cấp này thì được thừa hưởng tính chất của giai cấp đó. Rồng sinh ra rồng, phượng lại sinh phượng, còn chuột con chỉ có thể đào hang. Bọn họ sẽ chùn tay trong công cuộc Cách mạng Văn hóa. Không thể chấp nhận được!"

"Đâu nhất thiết phải như vậy," tôi nói. "Đồng chí chưa nghe chuyện về thủ tướng Chu Ân Lai? Một lần khi Thủ tướng Chu đang ở Moscow, Khrushchev nói với ông ấy một cách tự tin, “Nguồn gốc giai cấp của tôi là tá điền, còn của ngài là gì?” Rồi thủ tướng Chu nhìn Khrushchev và nói, 'Tôi xuất thân từ gia đình quan lại phong kiến. Vì vậy, chúng ta có vẻ có điểm chung đấy, thưa ngài Tổng bí thư. Cả hai ta đã phản bội giai cấp của mình.””



Chu Ân Lai và Lâm Đậu Đậu, con gái của Lâm Bưu - 1967

Bá Vương cười khúc khích: "Đó là một câu chuyện hay đấy, thưa đồng chí. Nhưng Thủ tướng Chu là một ngoại lệ."

Các học sinh thuộc phe đỏ khác tham gia thảo luận. Những ai phe trung gian im lặng, lắng nghe cuộc tranh luận của chúng tôi. Cuối cùng, chúng tôi đã bỏ phiếu, và luận điểm của Bá Vương được đa số ủng hộ. Vì vậy, 35 đứa của lớp chúng tôi trở thành Hồng vệ binh nhờ gốc gác gia đình của mình, và mười lăm người còn lại vẫn y nguyên.

Sau đó, tôi đã cố gắng an ủi Vưu Linh: “Đừng lo,” tôi nói. "Cậu vẫn có thể tham gia cách mạng mà không cần là một Hồng vệ binh."

“Vô nghĩa thôi,” nhỏ đáp bằng giọng trầm buồn, "Cậu sao tham gia Cách mạng Văn hóa được khi cậu không phải là Hồng vệ binh. Tất cả những gì giờ tớ có thể làm là cam chịu. Tớ về nhà với bà nội đây." Nhỏ cúi đầu bước đi.

Chủ tịch Đặng đã nhờ một nhóm học sinh làm băng tay đỏ. Những dải vải đỏ te tua có in sơn màu vàng, không được trang nhã như băng tay của Chủ tịch Mao, được phân phát. Khi tôi đeo lên, cảm giác tội lỗi với sự bất công của Vưu Linh vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi. Nhưng khi tôi đi vòng quanh khuôn viên trường với thân phận mới của mình, cảm giác đó của tôi nhường chỗ cho một điều gì đó trang trọng.​
 
Sửa lần cuối:
9. DỌN DẸP BỐN CÁI CŨ


Tranh cổ động dọn dẹp Bốn cái cũ - 1966

Báo đài từ Bắc Kinh lúc đó bắt đầu đưa tin về việc Hồng vệ binh đập bỏ các biển hiệu cũ của các cửa hàng, và đặt tên cách mạng mới thay cho các tên phong kiến cũ của các con phố. Ví dụ như Đại lộ Vĩnh Hòa, chạy qua Quảng trường Thiên An Môn, đã được đổi tên thành Đại lộ Hồng Đông, con phố một thời là nơi truyền giáo của các cường quốc phương Tây bây giờ được đặt tên là Đường chống Chủ nghĩa đế quốc, và nơi đặt đại sứ quán Liên Xô là Đường chống chủ nghĩa xét lại. Những tin tức nóng hổi này đã chỉ ra đường lối cho Hồng vệ binh ở Chính Định. Nhiệm vụ đầu tiên của chúng tôi, chính là dẹp bỏ bốn cái cũ ở thị trấn.

Mọi người tập trung tại Cổng Nam. Chủ tịch Ủy ban Đặng chỉ cho chúng tôi ngâm lại một đoạn trong Nghị quyết Mười sáu điểm, mà chúng tôi đã thành thạo đến mức có thể đọc nó như thơ:

Mặc dù giai cấp tư sản đã bị lật đổ, chúng vẫn cố gắng sử dụng những tư tưởng và lề thói cũ của giai cấp bóc lột để đầu độc quần chúng nhân dân, nắm bắt tâm chí họ và cố gắng khôi phục giai đoạn tư sản. Giai cấp vô sản phải làm điều ngược lại: Đó là tranh đấu với giai cấp tư sản trong lĩnh vực tư tưởng và sử dụng những tư tưởng và lề thói mới của giai cấp vô sản để thay đổi diện mạo tinh thần của toàn bộ xã hội. Hiện tại, mục tiêu của chúng ta là đấu tranh và đè bẹp những kẻ hữu khuynh muốn phá bỏ cấu trúc thượng tầng của chủ nghĩa xã hội...

Với lá cờ đỏ có thêu dòng chữ "Hồng vệ binh" phấp phới đầu đoàn, chúng tôi lên đường đến trung tâm thị trấn. Hầu hết ai nấy đều mang theo cuốn Hồng bảo thư, như ảnh chụp các Hồng vệ binh ở Bắc Kinh đã làm trên các tờ báo. Một số học sinh mang theo trống, chiêng, lọ mực, bút lông. Khi chúng tôi diễu hành, mọi người hát vang "Bài hát của Hồng vệ binh", được sáng tác bởi các đồng chí ở Bắc Kinh:

Chúng ta là Hồng vệ binh của chủ tịch Mao,

Rèn luyện tinh thần qua những trận phong ba,

Giữ vững tư tưởng của Chủ tịch Mao trong lòng,

Chúng ta cùng nhau quét sạch những kẻ sâu bọ.


Mục tiêu đầu tiên của chúng tôi trong thị trấn là tên các con phố. Chính Định có khoảng 72 đường phố lớn và nhỏ. Nhiều con phố được đặt tên theo vị trí của chúng, như Phố Tây Nam và Phố Nội Bắc Môn, và những phố khác theo các danh lam, như Phố Hoa Tự. Phố Vĩnh Thắng được đặt tên theo chiến công của vị tướng bất khả chiến bại Triệu Vân. Phố Dân Chủ được đặt tên sau khi giải phóng. Chúng tôi đã xem xét tất cả các tên và quyết định rằng chỉ có một con phố không phù hợp: Phố Tứ Hòa. Chúng tôi đổi tên nó thành Phố Tân Tứ để coi đó là một lời tuyên chiến với Bốn cái cũ.

Quán rượu Hoàng hậu Quách là điểm dừng chân tiếp theo của chúng tôi. Một tấm áp phích có dòng chữ: "Quán rượu công nông" dán đè lên dòng chữ sơn mài ánh vàng của bảng hiệu. Tại ngã tư chính của thị trấn, chúng tôi bắt gặp một vài nông dân đang bán rau trên xe kéo bằng gỗ. "Không phải họ là giai cấp tư sản à?" một Hồng vệ binh hỏi. "Chắc chắn luôn! Tịch thu luôn xe kéo của họ!", một người khác nói. Rồi nhóm Hồng vệ binh khác hùng hổ tiếp cận những người bán rong. "Ai cho phép các người thực hiện chủ nghĩa tư bản?", một nông dân bán cà tím bị chất vấn.

"Bác trồng những thứ này trong vườn của mình mà!" ông nông dân trả lời.

"Cô đã thu hoạch những quả dưa chuột này trên mảnh đất riêng của mình," một người bán hàng khác chen vào.

"Dù các người trồng trọt ở đâu, nếu không chịu cộng tác với hợp tác xã, đó là chủ nghĩa tư bản."

"Bác trồng ở mảnh vườn sau nhà khi đã xong công việc trên cánh đồng của hợp tác xã," lão nông với cà tím cự nự, "Chẳng phải điều đó được chính sách của nhà nước cho phép sao?"

"Thế các người coi công việc chỗ nào là quan trọng hơn? Nếu các người quan tâm đến dăm ba thứ tư lợi này, làm sao mà các người có thể tập trung vào công việc của tập thể? Cho nên, các người chính là một lũ theo chủ nghĩa tư bản, và chúng tôi sẽ phải tịch thu những thứ này!"

"Các cháu không thể làm thế được! Bác đã phải tiết kiệm trong một thời gian dài để mua chiếc xe này mà! " Lão nông bán rong giữ chặt chiếc xe của mình, giằng co với những Hồng vệ binh đang cố gắng kéo chiếc xe khỏi bác ấy.

Một Hồng vệ binh khác bước vào phân giải. "Các đồng chí," anh ấy nói, "chúng ta chỉ vừa mới bắt đầu nhiệm vụ của mình thôi. Nếu chúng ta cứ cố tịch thu chiếc xe cút kít này, ta sẽ chỉ kéo theo một gánh nặng. Tốt hơn, là bắt lão nông đây hứa sẽ không bán rong ở đây nữa và tha cho lão ta đi." Sau một hồi thảo luận, những Hồng vệ binh khác dán một áp phích phê phán chủ nghĩa tư bản trên chiếc xe ba gác của lão nông và thả cho bác đi.

Những cảnh tương tự đang diễn ra khắp các đường phố. Một số Hồng vệ binh bao vây một bà lão đang đeo đôi bông tai và vòng cổ nặng lủng lẳng, ra lệnh cho bà ấy tháo đồ trang sức của mình. Bà lão phục tùng và không có nói lấy một lời. Bà trao đồ trang sức cho đứa ồn ào nhất trong nhóm, để rồi đứa nhận được một phen bối rối, cuối cùng đành trả lại và nói với bà lão đem về nhà chôn.

Mỹ Hồ và một vài Hồng vệ binh vây quanh một bà già tóc bạc trắng có đôi chân bó. Trong thị trấn, không ai là không biết mặt bà. Bà thường ngày bán kem que, nhưng có tin đồn rằng việc bán kem que của bà lão chỉ là một vỏ bọc, trong khi bà ấy thực sự là một gái điếm tính phí năm tệ một lần. Chồng bà làm bảo kê trong khi bà hành sự trong nhà của mình.

"Bà lão à," Mỹ Hồ cố nói với chất giọng đanh thép nhất, "hãy cởi bỏ những miếng giẻ đang bó chân của thời phong kiến kia đi." Bà già lập tức bất tuân, "Tôi đã bó chân cả đời rồi!" Bà hét lên. “Đảng chưa bao giờ bảo tôi tháo ra. Thế mà các cậu dám nói với tôi như vậy sao? Các bà các mẹ của các cậu cũng bó chân như thế cơ mà? Về nhà bảo họ cởi ra trước đi!” Các học sinh đã cố thuyết phục bà lão một lúc, nhưng rốt cuộc bà ấy vẫn ngoan cố. Vì vậy, cánh học sinh đã treo một tấm biển quanh cổ bà ấy ghi: "Con chim trĩ mái muốn được đạp", rồi vẽ một vòng tròn bằng bột sơn xung quanh bà, và ra lệnh bà phải đứng đó dưới ánh mặt trời trong vòng bốn giờ. Ngay khi cánh Hồng vệ binh kia vòng qua góc phố, bà lão lỉnh vào trong nhà.

Chúng tôi lại tiếp tục cuộc diễu hành dọc theo phố Tứ Tân, cho đến khi chúng tôi bắt gặp ba mái vòm bằng đá cẩm thạch được chạm khắc công phu trên phố. Cổng vòm ba tầng đã tồn tại ở đây trong hai trăm năm. Các mái vòm đã được dựng lên dưới triều đại của Hoàng đế Càn Long thời nhà Thanh, để tôn vinh vị quan Bộ Lại, Lương Mạnh Long, một người gốc Chính Định.

Nhiều hậu duệ của cụ Lương vẫn sống ở khu phố này. Gia đình chúng tôi cũng sống đấy, và tôi đã chơi những trò chơi dân gian với những đứa trẻ của gia tộc họ Lương. Trò ưa thích của chúng tôi là "đóng giả các quan". Chúng tôi sẽ dựng đứng những viên gạch lớn, rồi ném những mảnh gạch vỡ vào chúng. Nếu ai làm đổ viên gạch lớn nhất và xa nhất, người đó trở thành quan lớn, nếu làm đổ những viên gạch nhỏ hơn thì sẽ là một quan chức nhỏ, và nếu trượt hết, đứa đó sẽ trở thành phạm nhân và phải chạy trốn. Các quan lớn sẽ ra lệnh các quan nhỏ đi bắt phạm nhân. Nếu thất bại, mọi người sẽ đánh đít các quan nhỏ.

Ủy ban Tiến hành của trường đã quyết định rằng bộ ba mái vòm kia, tượng trưng cho sự áp bức của chế độ phong kiến đối với người dân Chính Định, do đó phải được tháo dỡ. Mặc dù tôi đã có kỷ niệm vui về hồi còn chơi dưới mái vòm, việc tháo dỡ có lẽ không đến nỗi tệ. Trong tất cả 24 triều đại phong kiến của Trung Quốc, tôi không ưa nhà Thanh chút nào. Một, đó là một triều đại xâm lược của dân Mãn. Hai là dưới thời nhà Thanh, các cường quốc phương Tây đã bắt đầu khuất phục Trung Quốc với thuốc phiện và chiến hạm. Nhà Thanh đương nhiên là triều đại yếu kém nhất trong lịch sử Trung Quốc.

Một đứa học sinh nhanh nhẹn leo lên mái vòm đầu tiên, buộc chặt một dây thừng quân đội quanh chóp. Những người khác bắt đầu cạy lớp đá nền bằng xà beng và cuốc chim. Hàng xóm xung quanh vì tò mò kéo ra ngoài để xem. Tôi nhận ra trong đó có một số người họ Lương. Không ai dám bước ra phản đối, và một số người thậm chí đã lấy các công cụ ra để giúp chúng tôi. Trước tiếng reo hò "Đập tan Bốn cái cũ!", mái vòm sụp xuống và bị đập nát thành một đống đá vụn. Trong vòng hai giờ, cả ba mái vòm đã không còn và những đống đổ nát chắn ngang con phố.

Anh Phương Bảo leo lên đỉnh đống đổ nát, khuôn mặt thường ngày trắng bệch giờ đỏ bừng gần bằng chiếc băng Hồng vệ binh trên tay của anh ấy. Giơ nắm đấm lên trên cao, anh Phương thét lên: "Hỡi các đồng chí cách mạng, chúng ta đã đánh đổ thành công tác phẩm của giai cấp phong kiến này! Đây quả là thắng lợi đầu tiên của chúng ta! Mọi người hãy cùng phát huy và hướng tới mục tiêu tiếp theo!"

Chúng tôi tạm lau khuôn mặt bụi bặm của mình và bước đều giữa tiếng trống chiêng, tiếng hò hét và những bài hát cách mạng. Chúng tôi đang hướng về phía nam của thị trấn. Đó là nơi ở của người Hồi. Ở đó cũng có một số hậu duệ của người Do Thái đã đi dọc theo con đường Tơ lụa từ Trung Đông đến, vào thời nhà Tống. Tuy vậy, giáo đường Do Thái đã biến mất từ lâu, nên họ thực hành các nghi lễ tôn giáo cùng với người Hồi trong nhà thờ Hồi giáo. Trong khu phố này, người ta nghĩ một người với mái tóc xoăn có khả năng cao là người gốc Do Thái, nhưng nếu hỏi người Do Thái đó về đức tin của anh ta, anh ta sẽ đính chính rằng anh ta theo đạo Hồi.

Ngoại trừ những người Do Thái từ chối thân phận Do Thái này, những người Hồi trông thực sự giống như người Hán chúng tôi. Nhưng khi một người Hồi chết đi, thi thể sẽ được quấn trong một tấm vải dài màu trắng và được chôn trong một ngôi mộ được xây bằng gạch, trong khi một người Hán sẽ được đặt trong một cái áo quan bằng gỗ và chôn xuống đất. Hay một điều khác biệt của người Hồi giáo nữa là họ từ chối ăn thịt lợn. Có khá nhiều nhà hàng Hồi giáo trong thị trấn, và phòng ăn của trường chúng tôi có một khu vực đặc biệt dành riêng cho học sinh Hồi, những người đã được cho thịt cừu hoặc thịt bò, khi chúng tôi dùng thịt lợn trong bữa.


Thiêu hủy các câu đối và bức trướng - Chiết Giang 1966

Tôi đã được chỉ dạy rằng, tôn giáo là lạc hậu và mê tín, hay là một loại thuốc phiện của nhân dân, như Mác đã nói. Tôi đã thử niền tin của mình vào tôn giáo một lần, ngay trước khi tham gia kỳ thi tuyển sinh vào trung học, hồi mùa hè năm 1964. Mấy đứa chúng tôi từ trường tiểu học ở phố Dân chủ đã đi xem tượng Quan Thế Âm Bồ Tát tại đền Đại Phổ. Khi không có ai khác ở trong hội trường, chúng tôi vội vàng khuỵu xuống, chắp tay, cúi đầu và khấn trước vị Bồ Tát có 42 cánh tay, để phù hộ cho chúng tôi được nhận vào trường trung học. Chỉ có hai trong số chúng tôi đỗ vào trường. Những người khác đã đi đến các trường trung học bình thường khác. Tôi kết luận rằng, Bồ Tát thật ra không đáng tin cậy cho lắm.​
 
Sửa lần cuối:
9. DỌN DẸP BỐN CÁI CŨ (tiếp)

Nhà thờ Hồi giáo với mái vòm hình củ hành tọa lạc gần cổng phía nam của thị trấn. Một ông già với chòm râu lưa thưa bước ra dò xét đám đông học sinh ở lối vào. "Các bạn đang ở đây có việc gì không?" Đáp lại ông là những tiếng hét: "Chúng tôi đến để xóa bỏ Bốn cái cũ!”

"Tứ Cựu (Bốn cái cũ)? Ở đây không có ai tên như vậy."

Anh Phương Bảo bước lên phía trước: "Đừng giỡn chơi với chúng tôi," anh nói. "Chúng tôi đến để diệt trừ tệ nạn mê tín.”

"Cái gì mê tín cơ? Người Hồi chúng tôi không có mê tín gì cả."

"Không mê tín? Thế còn những người cúi mình trên sàn nhà, chổng mông lên trời và lẩm bẩm, “Thánh Allah, Allah” thì sao? Nếu không phải mê tín thì là gì?"

"Đó là tôn giáo, đức tin Hồi giáo của chúng tôi, được chính phủ cho phép. Nó không phải là mê tín dị đoan.”

"Ông già này nói nhảm đủ rồi!" Anh Phương Bảo nói. "Các hoạt động của nhà thờ này thuộc về Bốn cái cũ và phải bị xóa sổ!" Anh đẩy ngã ông già và nhóm Hồng vệ binh theo sau lũ lượt theo anh. "Tiến lên, các đồng chí cách mạng!" Anh Phương thét lớn. "Mao Chủ tịch dạy chúng ta rằng, cách mạng không giống như đi dự buổi dạ tiệc, hay viết một bài báo, vẽ một bức tranh, hay thêu thùa. Chúng ta không thể trang nhã và tinh tế như vậy. Cách mạng là khi giai cấp bị áp bức lật đổ giai cấp thống trị. Chúng ta hãy lật đổ trò mê tín dị đoan phản động này!”

Chúng tôi tìm kiếm thứ gì đó dễ phá hủy. Một vài tín đồ ở trong nhà thờ Hồi giáo, khi chúng tôi bước vào, đã vội vã trốn đi, chỉ để lại một không gian trống trải và sàn gạch lạnh lẽo. Chúng tôi quyết định hạ mái vòm xuống. Nó cao đến mức chúng tôi phải buộc nhiều sợi dây lại với nhau. Có đứa liều lĩnh tìm được đường lên mái vòm, sáng lấp lánh với ánh mạ đồng, và cột sợi dây đầu tiên vào cái đỉnh giống như kim nhọn của nó. Với hàng trăm Hồng vệ binh cùng hợp lực kéo, chúng tôi dễ dàng lật đổ củ hành khi đếm đến ba, xen lẫn là tiếng cổ vũ reo hò ầm ĩ.

Ông lão người Hồi chứng kiến trong sự kinh hãi và bất lực. Ai đó đã lấy được một cái đuôi lợn từ một cửa hàng bán thịt, rồi treo nó quanh cổ ông ấy. Những người khác thì vẽ những bức tranh biếm họa về những cái đầu lợn béo và dán chúng xung quanh tòa nhà và sân cầu nguyện bên trong. Chúng tôi đã dẹp bỏ Bốn cái cũ từ sáng sớm, và bây giờ đã là giữa trưa. Chúng tôi say mê thi hành cách mạng đến nỗi thậm chí không ai nhắc đến bữa trưa. Chủ tịch Đặng đã đợi với nụ cười trên môi khi chúng tôi ra khỏi nhà thờ Hồi giáo. Thầy ấy khuyên chúng tôi nên quay lại trường để ăn và nghỉ ngơi. "Các vị tướng lĩnh cách mạng nhỏ bé của chúng ta đã chăm chỉ làm việc cả ngày, nhưng đây mới chỉ là khởi đầu thôi. Thầy trò chúng ta còn một chặng đường dài phía trước.”

Sáng hôm sau, chúng tôi lên đường đến chùa Đại Phổ, như một đội quân của Tôn Ngộ Không đi đại náo thiên hạ. Chúng tôi bắt gặp một đại đội của Quân đội Giải phóng Nhân dân, đã chuyển đến trong đêm hôm trước, để bảo vệ ngôi đền. Khi cánh Hồng Vệ Binh lớp tôi tiến đến sảnh trước, nơi để tượng Phật Di Lặc bụng phệ đang mỉm cười và bốn vị Thiên vương, một trong những người lính tiến đến chào đón chúng tôi. Quân hàm trên áo khoác của anh ta cho thấy đó là một sĩ quan. Anh sĩ quan cũng cầm một cuốn Hồng bảo thư trên tay. Anh nói nhã nhặn: “Thưa các Hồng Vệ Binh thân mến, ngôi chùa này nằm trong danh sách di tích văn hóa cấp quốc gia. Nó không thuộc loại Bốn cái cũ. Xin mọi người rời đi và tìm các mục tiêu Bốn cái cũ khác!”

Lớp trưởng Tào Lan, cũng đang nắm chặt Hồng bảo thư trong tay, trả lời anh sĩ quan: "Thưa đồng chí bộ đội, nơi này sao các anh có thể nói không thuộc về Bốn cái cũ? Anh không thấy những bằng chứng mê tín đó sao?" Nói xong nhỏ chỉ về phía tượng các Thiên vương, với dáng vẻ thực sự trông quái dị, đặc biệt là một tượng có nước da màu xanh lá cây và răng nhô ra.

"Những bức tượng này là tác phẩm của các nghệ nhân thời kim cổ," anh sĩ quan trả lời. "Chúng thuộc về nhân dân, vậy nên chúng ta không nên phá hủy chúng."

"Anh bộ đội không thấy rằng kia ý chỉ sự đàn áp giai cấp nhân dân lao động sao?" Mỹ Hồ nói, chỉ vào một hình nhân nhỏ bé đang quằn quại trong đau đớn dưới chân của một trong những vị Thiên vương.

"Đây là những nhân vật trong truyền thuyết và chẳng liên quan gì đến thực tại," anh sĩ quan giảng giải. Học sinh từ các lớp khác đã tản qua để nghe về cuộc tranh luận. Anh sĩ quan này tận dụng cơ hội luôn. "Hãy đi với tôi," anh nói trước nhóm khán giả ngày càng đông. "Tôi sẽ nói cho các bạn nghe một câu chuyện có thật.”

Tò mò, chúng tôi đi theo anh sĩ quan, băng qua khuôn viên chùa để đến sảnh của Quan Thế Âm Bồ Tát. Anh dẫn chúng tôi vào trong. "Tất cả các bạn đều biết rằng tượng Quan Thế Âm Bồ Tát đây có bốn mươi hai cánh tay," anh ta nói. "Nhưng bạn có biết, rằng chỉ có hai cánh tay lớn ở phía trước là bằng đồng thật? Giặc Nhật cưa bốn mươi cánh tay còn lại để nấu chảy làm đạn giết người Trung Quốc. Nhật Bản có truyền thống Phật giáo lâu đời, nhưng chúng không màng đến điều đó nếu thiếu đạn dược. Chúng muốn phá hủy toàn bộ bức tượng, nhưng chúng không thể nhổ nó đi. Cuối cùng chúng phải bỏ cuộc khi những người lớn tuổi trong đền thuyết phục chúng rằng, nước sông sẽ dâng lên và tràn ngập toàn bộ thành phố nếu tượng Bồ Tát bị phá hủy."

"Bọn giặc Nhật chết tiệt! Bọn Nhật tội đáng chết!" một số Hồng vệ binh nghiến răng.

Vị sĩ quan quân đội tiếp tục, bằng một giọng nhẹ nhàng nhưng vang khắp hội trường, "Bức tượng này không hề dễ làm đâu. Những người thợ thủ công thời nhà Liêu đã xây đắp một đống đất nhỏ và tạo khuôn cho tòa sen bằng cách chạm khắc. Nhiều lò luyện đồng cùng làm việc để tạo ra đủ lượng đồng để đổ vào khuôn. Sau khi đúc xong, những người thợ thủ công đã chất thêm đất lên đống đất đó, để làm phần thứ hai. Họ lặp lại điều này bảy lần cả thảy, phần đầu được đúc sau cùng. Xong rồi, họ dỡ bỏ ngọn đồi đi, và bức tượng đã ở đây kể từ đó."

Chúng tôi nhìn lên tượng Bồ Tát với một con mắt khác.

"Các bạn còn nghĩ rằng chúng ta nên đập phá những di tích văn hóa này không?" Anh sĩ quan hỏi.

Bỗng nhiên, chúng tôi nghe thấy một tràng những âm thanh đổ vỡ. Viên sĩ quan chuyển mặt tái mét. Anh ấy lao ra ngoài, và chúng tôi cùng chạy theo sau. Trong khi anh ta kể với chúng tôi câu chuyện thú vị về tượng Bồ Tát, những cánh học sinh khác đã tập hợp lại trước Tứ Thiên vương, buộc dây thừng vào chúng và kéo cả bốn xuống cùng một lúc. Kết quả là cả bốn bức tượng trở thành đá vụn.

Anh sĩ quan nhìn đống đổ nát mà mắt ngấn lệ, miệng lắp bắp: "Chúng mày… Chúng mày là loại Hồng vệ binh gì vậy?" Ngay sau đó, đồng chí sĩ quan hét lên một tiếng và một trung đội lính chạy đến. Họ dàn hàng ngang để phong tỏa lối vào hội trường. Những đứa thủ phạm đã biến, vì không ai muốn đụng độ với Quân đội Giải phóng Nhân dân. Chúng tôi tiếp tục bước đi, vẫy cờ đỏ, hát bài ca Hồng vệ binh, và hân hoan trong bài hát mới nhất của chúng tôi về chiến thắng trước Bốn cái cũ.​
 
Sửa lần cuối:
1. CƠN ĐỘNG ĐẤT LỊCH SỬ


Chính Định, nơi bối cảnh của cuốn tự truyện diễn ra

Một buổi sáng mùa xuân 1966, tôi thức dậy trong tiếng chuông báo thức ký túc xá, của trường trung học Chính Định số 1. Mọi người túa ra khỏi phòng ngủ trong tình trạng mặc đồ lót. Mặc dù là mùa xuân, nhưng miền Hoa Bắc vẫn còn lạnh, bạn tôi Mỹ Hồ run như cầy sấy. Nhìn quanh cứ ngỡ động đất xảy ra, nhưng tòa nhà vẫn có vẻ yên ổn. Mọi người chạy vòng quanh một lúc rồi quay lại ký túc xá. Tôi bận chiếc áo ấm và quần bông, rồi lên lớp bình thường.

Trong giờ nghỉ trưa, tôi bật chiếc radio tự chế, nhận tín hiệu từ đài Bắc Kinh để cho mọi người nghe. Một trận động đất tầm 6,7 độ Richter xảy ra ở một huyện cách xa vài trăm kilomet về phía nam, làm hàng nghìn người chết, và thêm vài nghìn người bị thương và mất nhà cửa. Quân đội, do thủ tướng Chu Ân Lai đã đến để thăm dò và hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai. Vài giờ sau, hiệu phó Lâm Thịnh, phát biểu trước tòa nhà giáo viên rằng chúng tôi phải hỗ trọ quyên góp quần áo và giường tạm cho nạn nhân của vụ động đất trên. Có một đoàn tàu chở những nạn nhân bị thương đến bệnh viện quân đội ở Chính Định. Tôi đóng góp một cái gối ruột kiều mạch, và cùng với mọi người chặt cành cây để làm cáng. Thằng Viện Triều có bố nó làm ở bệnh viện quân đội, thì đóng góp một cái cáng chuẩn y khoa. Những đồ quyên góp được tập trung ở một khu vực cạnh ga xe lửa, được đốt đuốc để làm dấu. Tối đến, 5 cái trực thăng theo dấu ánh đuốc mà hạ cánh. Những nạn nhân được đưa lên cáng và vào bệnh viện.

Vụ động đất này mau chóng bị rơi vào quên lãng, cho dù vài hôm sau chúng tôi phải chuẩn bị đề phòng cho hậu dư chấn, bằng cách mang bàn ghế ra ngoài và học tập dưới trời nắng. Với một lú trẻ con như chúng tôi hồi đó thì đây là một việc cực thú vị. Nhưng những người cao tuổi trong thị trấn thì lại không nghĩ thế. Vụ động đất làm rụng cái đỉnh gỗ của mái chùa cố trong trấn. Mọi người ai nấy cho là điềm rủi.

Một lão già mê tín cùng cực, mà tôi nhớ lại, đã cố trèo qua tháp chuông của trường trung học mỗi sáng, chỉ để rung chuông báo thức. Lão quả quyết rằng những vụ địa chấn luôn đem lại điềm xấu. Trong lịch sử, sau một cuộc địa chấn kinh hoàng, Vương Mãng đã lật đổ nhà Tây Hán và náo loạn toàn cõi Trung Nguyên. Và 17 năm sau, Lưu Tú đã tiêu diệt Vương Mãng, lên ngôi Quang Vũ Đế và lập ra nhà Đông Hán.

Chưa hết, lão già còn nói rằng chính Lưu Tú đã dừng lại ở chốn Chính Định này trong lúc tiến đánh Vương Mãng. Trưởng quận Trương Định mời Lưu cưới cháu họ mình, sau này là Quách hoàng hậu. Và điển tích xưa kể lại, trong đám cưới, Lưu Tú và Quách thị cùng uống rượu thề và bổ một quả bí ra làm đôi. Mà rượu đó ở đâu? Có vẻ từ một tiệm rượu mang tên Quách Hoàng Hậu đương bán dưới phố chính. Lão kể ra cũng uy tín chứ? Nhưng cũng để chắc chắn, tôi lên thư viện trường và xem sách viết thế nào. Lão kể 10 phần thì đúng 9 phần, mặc dù 1 phần còn lại khá quan trọng. Sau khi xưng đế thì Vũ Đế đã phế hoàng hậu xuống làm quý phi, và đưa một người con gái đẹp khác làm hoàng hậu.

Nói chung thị trấn Chính Định có những tích cổ như vậy vì đã trải qua tầm 4000 năm văn minh. Các triều đại được lập nên rồi sụp đổ, tạo chứng tích ở đây tốt đến nỗi, nếu bạn đào khoảng 3 mét sâu dưới đất, bạn có thể thấy được nền tường thành cũ. Sông Hô Đà trải qua ở phía nam, phía tây thì có đường cao tốc đang xây dở, bên cạnh tuyến đường sắt Bắc Kinh – Quảng Châu. Mà hơn nữa, thị trấn này là một sự pha trộn của các nền văn hóa khác nhau. Ngoài bốn ngôi chùa cổ ra, có một nhà thờ Công giáo kiểu Gothic, trước được một cha xứ tay to mặt lớn cai quản, giờ là bệnh viện quân đội, một nhà nguyện của người Hồi. Một tụ điểm hấp dẫn khác là đền Đại Phổ, ở phía đông của thị trấn, có tượng Quan thế âm, cao 22 mét và có 21 cặp tay.


Đền Đại Phổ với tượng Triệu Vân thời nay

Từ hồi trung cổ, Chính Định đã là nơi dừng chân của bao thế lực, những thương nhân Do Thái từ Ba Tư, nhà truyền đạo Tin lành của Mỹ rồi quân xâm lược Nhật. Năm 1900, liên quân Bát quốc đã đến đây để truy sát những người Nghĩa Hòa Đoàn từng đốt nhà thờ. Tôi nhớ lần cuối có chiến sự ở đây là vào năm 1947, khi PLA đã tập kích vào thị trấn và quét sạch quân Quốc Dân Đảng đến người cuối cùng.

Người Chính Định giữ bên mình nhiều ngón nghề và truyền thống mà ông cha để lại. Ai cũng biết làm pháo tép, lấy muối diêm từ đất nhão của đầm cói gần thị trấn, rồi trích xuất ra. Muối diêm trộn với lưu huỳnh từ trứng thối để khô, bột than gỗ, và thế là thành pháo. Đặc sản của thị trấn là món thỏ hầm, vốn là một truyền thống từ thời Hán, và bạn có thể tìm nó ở bất kì chỗ đầu ngõ nào trong thị trấn.

Nhưng sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nhắc đến Triệu Vân, một trong Ngũ hổ Tướng của Lưu Bị, người cũng đã sinh ra trên vùng đất này. Nơi tướng Triệu sinh ra nằm ở đâu đó ở phố Bách Thắng. Một đứa con gái cùng lớp của tôi, tên họ là Triệu, suốt ngày khoe khoang rằng mình là hậu duệ của tướng Triệu, và tôi cũng tin lấy tin để. Mọi người cũng đồn rằng Triệu Vân đã tắm cho ngựa và mài kiếm của mình ở tấm bia đá đầu đền Đại Phổ. Tôi cũng tin cho đến khi có một đoàn khảo cổ về và xem xét, thì té ra nó thuộc về thời nhà Đường.

Chính Định không phải là nơi tôi sinh ra. Gia đình tôi có gốc từ Thủy Nguyên, một thị trấn nhỏ nằm dọc dãy Thái Hành Sơn, ngay cạnh Vạn Lý Trường Thành. Nhà có 5 đứa, 4 trai, 1 gái. Tôi là đứa thứ nhì. Anh cả của tôi, Vệ Hoa, sinh vào 1950, khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. 2 năm sau đó tôi ra đời. Đứa thứ ba là Chỉ Hoa, và đứa trai út là Tân Hoa. Em gái Mai Nguyên của chúng tôi, có lẽ là đứa duy nhất trong nhà được sinh ở Chính Định.


Ông Cao Sơn Quế - Ảnh chụp năm 1960

Bố của chúng tôi, Cao Sơn Quế, từng lãnh đạo một đợn vị du kích chống Nhật quanh vùng núi Thái Hành. Sau khi Nhật bại trận vào 1945, ông được bầu làm trưởng trấn Thủy Nguyên, vốn dĩ nằm dưới vùng kiểm soát của Hồng quân. Năm 1955, tỉnh trưởng tỉnh Hà Bắc giao cho bố tôi chức vụ công tố viên về điều tra hình sự, của tòa án nhân dân tỉnh. Tuy vậy, ông thích đọc những cái tài liệu làm nông và thảo luận với tầng lớp bần nông mù chữ, nên không lâu sau khi nhậm chức, ông xin về làm thị trưởng thị trấn Chính Định, với số dân khoảng 350000 người lúc đó. Mẹ tôi cũng theo đó mà có một công việc hành chính.

Chúng tôi hồi đó ở với ông ngoại bên Thủy Nguyên khoảng tầm hai năm, đúng lúc phong trào Đại nhảy vọt đang được tiến hành. Giấc mơ của chủ tịch Mao về một cuộc cách mạng công nghiệp vô sản vĩ đại, nhanh chóng, được nhân hóa bằng một tấm áp phích, trên đó vẽ một người đàn ông lực lưỡng đứng cạnh một quả tên lửa, dưới ghi hàng chữ to tướng: “Phải vượt qua nước Anh trong 15 năm tới!”. Chúng tôi dành thời gian ở nhà phụ giúp ông ngoại đập nát cái bình sắt gia truyền cổ, tháo chốt đồng ở cánh cổng chính trước nhà, để giao nộp cho lò luyện kim tự chế của hợp tác xã. Và bị cuốn theo phong trào công xã nhân dân (CXND), ông ngoại chúng tôi xung phong làm ông nuôi cho một nhà ăn tập thể của địa phương. Ai nấy cũng nghĩ rằng giai đoạn quá độ CNXH sắp thành công, và đạt được chủ nghĩa cộ.ng s.ản chân chính.

Chúng tôi cùng ông ngoại rời đến Chính Định vào cuối năm 1959, chỉ mang theo bát cơm và đũa. Ông lại được làm phụ bếp cho nhà ăn địa phương. Rồi đến mỗi tối, lũ trẻ chúng tôi ai nấy cũng háo hức đòi nghe ông kể về phần của Triệu Vân trong Tam Quốc.

Rồi vào một hôm, nhà ăn tập thể tự dưng đóng cửa, mọi nhà đành phải mua nồi niêu để tự nấu. Sau đó là thiếu thốn đủ điều. Đó là lần đầu tiên chúng tôi được nhận tem phiếu để mua các nhu yếu phẩm thường ngày, gạo, dầu, vải, than… Và khi tình trạng đói kém càng tệ hại, dân phố cũng như nông dân đều hô hào dỡ bỏ bức tường thành cổ ở Chính Định. Mọi người bẩy những viên gạch cổ ra rồi đem đi bán, hoặc dùng để xây chuồng lợn. Bố tôi vô cùng lo lắng trước tình trạng như vậy, vì thứ nhất, tường thành Chính Định là tường thành cổ được được bảo tồn kỹ lưỡng nhất tỉnh, và thứ hai, tường thành cực kỳ quan trọng trong việc phòng chống lũ lụt. Vào mùa mưa, con sông Hô Đà thỉnh thoảng dâng cao tràn qua bờ đê, nhưng may là có bức tường thành giữ lại. Bố tôi liền ra công lệnh nghiêm cấm việc phá hoại bức tường. Bức công lệnh được dán ở khắp nơi, có dấu đỏ kèm chữ ký của bố tôi ở dưới.

Công lệnh này tuy đã dừng lại việc phá hoại tường thành, nhưng cũng đem bố tôi vào rắc rối. Vào cuộc họp của Đảng ủy quận Chính Định, chính ủy viên Hán Vinh đã buộc tội ông ra công hàm mà không có sự phê thuận của cấp trên. Nhưng bố tôi, cũng có chức vụ trong Đảng ủy, thanh minh rằng là mình đã có hành động đúng đắn với vai trò là trưởng quận. Mặc dù ông được nhiều người ủng hộ, nhưng chính ủy Hán vẫn chưa dừng lại ở đó. Hắn gửi một bức thư lên Tỉnh Ủy, tố cáo bố tôi về tội đi lại đường lối của Đảng. Âu cũng phải, vì trước đó ông vô tình xúc phạm hắn là một kẻ quan liêu, xa rời thực tiễn, còn nói xấu sau lưng rằng: “Chính ủy Hán là một tên đàn bà”. Kết quả là Tỉnh ủy bắt bố tôi thôi chức vụ trưởng quận, và điều đi làm công nhân của một nhà máy thép ở Thạch Gia Trang, thủ phủ của tỉnh.

Gia đình chúng tôi tiếp tục sống trong một khu phố yên tĩnh ở Chính Định. Mẹ tôi, sau khi sinh Nhất Nguyên, đứa em gái út, đã quay trở lại làm việc kế toán cho phòng thuế quận ngay cả khi kỳ nghỉ sinh chưa kết thức. Năm 1960-62 được coi là 3 năm đói kém. Anh em chúng tôi, khi từ trường tiểu học ở phố Dân Chủ quay về, đói đến lả người. Đến lúc ăn, ông ngoại phân phát cháo ngô và bánh hấp làm từ bột khoai lang cho 6 anh em, tùy theo độ tuổi. Ông luôn nhắc đến tích Khổng Dung trong Tam quốc luôn chọn quả lê nhỏ nhất, có lẽ là để phân chia cho anh em trong nhà một cách công bằng.



Máy cày xếp hàng trong giai đoạn Đại Nhảy Vọt - 1958-1960


Nạn nhân nạn đói trong 3 năm đói kém - 1960 -> 1962

Những câu chuyện của ông kể lại luôn làm cho bữa ăn thêm phần hứng khởi, mặc cho hoàn cảnh hiện tại là hầu như chẳng có bữa nào được no. Chỉ Hoa thậm chí liếm cái bát cháo đã khô cong để chắc chắn rằng nó không bỏ sót một giọt cháo nào. Thi thoảng chúng tôi ra ngoài tìm những nguồn thức ăn mà giờ kể cũng khó tin, như là hái lá liễu, lá dương non mà cho vào ruột bánh, bóc vỏ cây du rồi nhai rau ráu. Chuồn chuồn, ve sầu cũng trở thành những nguồn đạm khoái khẩu. Thi thoảng chúng tôi cũng đi tìm nhiên liệu đốt. Khi than hết vào mùa đông và đầu xuân, ông ngoại dẫn chúng tôi ra cánh đồng bông ở phía nam thị trấn để đào rễ khỏi nền đất lạnh giá, và vào lúc cuối hè sang thu, chúng tôi kiếm lá khô và cỏ khô. Và quần áo thì ai cũng như ai, vá chi chít chằng chịt.

Bởi vì bị giáng chức, lương của bố tôi đã giảm từ 130 tệ một tháng xuống chưa đến 100 tệ. Lương mẹ tôi thì vẫn vậy, 42 tệ một tháng, cứ như vậy được 10 năm rồi. Lạm phát trong 3 năm đói kém kinh khủng tới mức giá một quả hồng trước chỉ có 3 hào, nhưng sang năm 1962 thì lên tận 50 hào (là bằng nửa tệ). Lúc đó nếu tính sơ sơ cả gia đình chúng tôi chỉ có tổng thu nhập chừng 280 quả hồng. May thay là nhà nước vẫn giữ giá lương thực bình ổn. Ngược lại, những thứ không ăn được thì giá lại giảm. Lọ gốm sứ cổ, trang sức, lư đồng, tượng thần Phật, gia tài được bán với giá rẻ không tin được. Chỉ bỏ ra vài tệ là có thể mua được một món đồ cổ, mà thời nay nó có thể chễm chệ ở đâu đó trong một viện bảo tàng. Mặc cả không có giá trị gì, vì nhiều người bán hơn người mua. Một hôm khi ông ngoại chúng tôi, đang trên đường đi mua thức ăn, đã để ý tới một chiếc bát gốm tinh xảo thời nhà Minh. Ngoại quan hoàn hảo, hoa văn dưới đáy bát chỉ rằng nó được tạo ra dưới thời Tuyên Đức Đế, khoảng giữa thế kỷ 15. Giá là 50 hào, bằng một quả hồng mà thôi. Ông ngoại mua luôn mà không chút đắn đo nào.

Anh cả Vệ Hoa thấy tò mò với kiểu buôn bán trên và quyết định thử sức. Anh lấy một chiếc áo len lông lạc đà và đứng ở đầu chợ suốt cả buổi, quyết giữ giá 15 tệ cho cái áo đó. Chẳng ai mua. Vẫn không bằng lòng, ngày hôm sau ra ga xe lửa, nhưng vẫn không thành. Ông tôi khuyên anh từ bỏ. Vì nếu không ai mua một cái đỉnh bằng đồng từ thời Tần với giá 2 tệ, thì một cái áo len đã qua sử dụng càng không có cơ hội.

Bố chúng tôi không có thời gian ở nhà mấy bởi vì tính chất công việc, ngay cả khi đã bị giáng chức xuống làm công nhân nhà máy thép. Đi làm về là ông tự nhốt mình trong một cái miếu nhỏ đã xuống cấp gần nhà chúng tôi. Nơi đó do lão Lưu, một sĩ quan quân đội về hưu quản lý. Lão cũng có thiện cảm với bố tôi, và xem rằng bố tôi đã bị oan ức và để cho ông dùng cái miếu đó. Anh em chúng tôi cuối cùng cũng tìm ra lí do mà bố tôi đã dùng, vào đầu năm 1963, khi người đưa thư đến và đưa một bản thông báo rằng trưởng quận Cao Sơn Quế đã được miễn tội. Bố tôi trước đó luôn gửi thư khiếu nại cho Tỉnh ủy và Đảng bộ Trung ương, vào họ đã xem lại trường hợp của ông.

Bố tôi vốn là một người công chức rất được yêu thích, và việc giáng chức của ông ấy đã dẫn đến một làn sóng phản đối trong tỉnh. Ông còn được ví như kiếp sau của Hải Thụy, một viên trung thần thanh liêm chính trực thời nhà Minh. Công cuộc sửa sai sau này hóa ra chỉ là một cuộc trao đổi giữa chính ủy Hán và văn phòng Đảng ủy tỉnh. Hắn thoát tội mà không nhận lại bất cứ sự trừng phạt nào, thậm chí còn được chuyển công tác đến Đảng ủy thành phố Thạch Gia Trang. Bố tôi được chuyển về làm trưởng huyện Linh Thọ kế bên, với nhân khẩu khoảng 250000 người. Mọi người, trừ 2 con trai cả, là anh Vệ Hoa và tôi, chuyển về huyện vào một ngày mưa gió giữa tháng 8 năm 1963. Năm đó nước sông Hô Đà lên cao và tràn bờ, may thay thị trấn Chính Định được bức tường cổ che chở khỏi dòng lũ. Uy tín của bố tôi từ đó cứ lên cao gấp bội, và ai trong thị trấn cũng nghĩ ông là một vị hiền nhân. Nhưng sau cùng, bức tường cổ đó vẫn bị tháo dỡ.
Hay
 
Nên đọc "Cửu Bình Đảng cơm Sườn" thì mới rỏ được và "Giải Thể Văn Hóa Đảng"
 
Hay quá. Cảm ơn thớt t đọc 1 mạch từ chiều đến giờ. Bài này t mạn phép tag thằng @TrienChjeu vào vì biết sẽ hợp goul và mở mang thêm kiến thức cho nhiều a em.
Thật sự 1 chế độ quái thai để duy trì quyền lực của mình mà luân thường đạo lý tình cảm bố mẹ gia đình tình thầy trò cũng bị chà đạp.
Đám đông bị cuốn vào những điều tồi tệ bại hoại nhưng k 1 chút áy náy nào.
T nhớ đọc được ở đâu đó rất nhiều thí nghiệm nếu k phải chịu trách nhiệm nếu 1 đám đông cùng làm thì giết người hiếp dâm đánh đập chà đạp người khác con người k ăn năn gì mà tha hồ bộc lộ thú tính của mình.
Nhân chi sơ tính bổn thiện hay là Nhân chi sơ tính bổn ác đây.
 
Hay quá. Cảm ơn thớt t đọc 1 mạch từ chiều đến giờ. Bài này t mạn phép tag thằng @TrienChjeu vào vì biết sẽ hợp goul và mở mang thêm kiến thức cho nhiều a em.
Thật sự 1 chế độ quái thai để duy trì quyền lực của mình mà luân thường đạo lý tình cảm bố mẹ gia đình tình thầy trò cũng bị chà đạp.
Đám đông bị cuốn vào những điều tồi tệ bại hoại nhưng k 1 chút áy náy nào.
T nhớ đọc được ở đâu đó rất nhiều thí nghiệm nếu k phải chịu trách nhiệm nếu 1 đám đông cùng làm thì giết người hiếp dâm đánh đập chà đạp người khác con người k ăn năn gì mà tha hồ bộc lộ thú tính của mình.
Nhân chi sơ tính bổn thiện hay là Nhân chi sơ tính bổn ác đây.
VN cũng có cải cách ruộng đất, đấu tố y như này.
 
Thật sự 1 chế độ quái thai để duy trì quyền lực của mình mà luân thường đạo lý tình cảm bố mẹ gia đình tình thầy trò cũng bị chà đạp.
Đám đông bị cuốn vào những điều tồi tệ bại hoại nhưng k 1 chút áy náy nào.
T nhớ đọc được ở đâu đó rất nhiều thí nghiệm nếu k phải chịu trách nhiệm nếu 1 đám đông cùng làm thì giết người hiếp dâm đánh đập chà đạp người khác con người k ăn năn gì mà tha hồ bộc lộ thú tính của mình.
Nhân chi sơ tính bổn thiện hay là Nhân chi sơ tính bổn ác đây.
Khi dịch cuốn này tôi cũng nghĩ đến lực lượng Wehrmacht của Đức Quốc Xã, kiểu "làm theo mệnh lệnh".

Nhưng Werhmacht là kiểu "đa phần bị ép buộc để làm điều xấu"
Còn Hồng Vệ Binh là kiểu "được nhà nước dung túng nên làm điều xấu"
 
Khi dịch cuốn này tôi cũng nghĩ đến lực lượng Wehrmacht của Đức Quốc Xã, kiểu "làm theo mệnh lệnh".

Nhưng Werhmacht là kiểu "đa phần bị ép buộc để làm điều xấu"
Còn Hồng Vệ Binh là kiểu "được nhà nước dung túng nên làm điều xấu"
Bạn tự dịch à rất tâm huyết và rất hay cảm ơn bạn.
Nếu là lực lượng của ĐQX thì tôi cho rằng họ tin lý tưởng mù quáng nhưng ít ra vẫn còn nhân tính với gia đình và dân tộc mình.
Còn việc đấu tố thời điểm CMVH này là bỏ hết tất cả dù tình thân cứ cái gì mang danh phản cách mạng dù là tình thân trong gia đình hay tình thầy trò.
Ở trên nhắc tới đấu tố cải cách ruộng đất tôi thấy nó còn kinh khủng hơn nhiều, cải cách ruộng đất chỉ 1 phần đấu tố địa chủ. Còn đây thì là tư tưởng, mối quan hệ, đạo đức v.v.
Rất cảm ơn bạn vì 1 bài tâm huyết, nếu đưa nó ra mục chuyện trò linh tinh mình nghĩ sẽ sôi nổi hơn nhiều.
 
Top