Cuộc đời của Thuần Hiền Thân Vương (tiếp)
Quân Thanh giao tranh với quân Anh; Chiến tranh Nha Phiến lần 2
Sự việc xảy ra hồi năm 1861. Lúc bấy giờ chiến tranh nha phiến lần thứ hai đã kết thúc bằng việc ký hoà ước một cách nhục nhã. Vua Hàm Phong trốn tới tình Nhiệt Hà ốm nằm liệt giường, trước khi mất, ông cho gọi ba vị đại thần ngự tiền và năm vị đại thần quân cơ đi theo ông tới bên cạnh giường dặn phải dựng người con sáu tuổi là Tải Thuần làm hoàng thái tử và cử tám vị đại thần này làm đại thần tán tương chính vụ (giúp đỡ quản lý việc nước). Hôm sau vua Hàm Phong “thăng hà”. Thể theo lệnh vua, tám vị “cố mệnh đại thần” này phù Tải Thuần lên nối ngôi, đặt niên hiệu “Kỳ Tường”, đồng thời nắm hết quyền bính của triều đình.
Tám vị cố mệnh dại thần này là Di thần vương Tải Viên, Trịnh thân vương Đoan Hoa, thượng thư hộ bộ đại học sĩ hiệp biện Túc Thuận và năm đại thần quân cơ Cảnh Thọ, Mục Âm, Khuông Nguyên, Đỗ Hàn, Tiêu Hựu Doanh. Trong số người này, hai vị thân vương và đại học sĩ hiệp biện là những người nắm thực quyền, mà Túc Thuận lại là người chủ chốt nhất. Túc Thuận là người được coi trọng hồi thời vua Hàm Phong, nghe nói y giỏi đề bạt “nhân tài”, từng giới thiệu và đề bạt địa chủ người Hán là Tăng Quốc Phiên và Tả Tông Đường giúp triều đình nhà Thanh đàn áp cuộc cách mạng Thái Bình Thiên Quốc. Vì trọng dụng người Hán, nên y bị bọn quý tộc ghen ghét. Có người nói, trong thời kỳ Thái Bình Thiên Quốc hưng thịnh nhất, y vơ vét và bòn rút nhân dân cũng chỉ nhằm đối tượng là người “kỳ”(*). Cũng có người nói y rất hung ác, tàn nhẫn, chuyên quyền ngang ngược, có nhiều thủ đoạn rất thâm độc đối với những ai không ăn cánh, vì vậy đã gieo mầm mống tai hoạ và bị mọi người thù oán. Kỳ thực, Túc Thuận bị giết, nguyên nhân căn bản nhất là vì giữa tập đoàn này với phái thế lực mới vừa hình thành có mâu thuẫn gay gắt như lửa với nước, bọn Túc Thuận chưa biết rõ Cung thân vương Dịch Hân ở Bắc Kinh đang câu kết với người nước ngoài lúc bấy giờ đã có lực lượng như thế nào.
(*) Biện pháp cai trị của giai cấp thống trị người Mãn đối với dân tộc người Mãn là thực hành chế độ tám kỳ hợp nhất quân sự, hành chính và sản xuất. Chế độ này phát triển từ chế độ “ngưu lục” (người Hán dịch là “tá lĩnh”, là một hình thức tổ hợp nhất sản xuất và quân sự hồi thời kì đầu lịch sử dân tộc Mãn), năm thứ 29 (hay năm 1601) thời vua Vạn Lịch đời Minh, Nỗ Nhĩ Cáp Xích lập ra bốn kỳ Hoàng, Bạch, Hồng, Lam; năm thứ 44 (hay năm 1615) lập thêm bốn kỳ Tương Hoàng, Tương Bạch, Tương Hồng, Tương Lam, cả thảy là tám kỳ. Phàm người Mãn đều được biên chế vào thời kỳ này, vì vậy gọi là người kỳ, thời bình thì sản xuất, thời chiến thì đi đánh trận. Thời vua Hoàng Thái Cực lại lập nên tám kỳ Mông Cổ và tám kỳ quân Hán.
Quân Thanh tấn công thành quân Thái Bình Thiên Quốc
Cung thân vương Dịch Hân vốn không phải nhân vật được lòng trong triều đình Hàm Phong. Hàm Phong khi bỏ trốn đi tỉnh Nhiệt Hà đã để Dịch Hân ở lại Bác Kinh đàm phán với nước ngoài, song công việc chẳng có gì vui sướng này lại tạo cho y một dịp may rất tốt. Dịch Hân thay mặt triều đình nhà Thanh đàm hoà với liên quân Anh - Pháp và tiếp nhận “Điều ước Bắc Kinh” mất quyền nhục nước, do đó được đế quốc tán thưởng. Vị “hoàng thúc” được người nước ngoài ủng hộ này tất nhiên không cam chịu ở địa vị thấp kém hơn bọn Túc Thuận, hơn nữa lại được các vương công đại thần xưa nay vẫn ghen ghét Túc Thuận dung túng, nên càng muốn thử sức xuất đầu lộ diện. Đang lúc ấy, bỗng nhận được chỉ dụ của hai vị thái hậu ở “Ly cung” tỉnh Nhiệt Hà phái người bí mật mang đến.
Hai vị thái hậu này, một là, hoàng hậu của vua Hàm Phong, sau mang tôn hiện Từ An, còn gọi là Đông thái hậu, vị khác chính Từ Hy, còn gọi là Tây thái hậu. Tây thái hậu vốn là cung nữ, vì có thai với Hàm Phong nên được nâng làm quý phi, đẻ ra Tải Thuần là con trai duy nhất của Hàm Phong. Về sau Tải Thuần làm vua, mẹ nhờ con được vinh hiển, trở thành thái hậu. Không biết có sự sắp xếp gì trước hay không mà Từ Hy vừa lên thái hậu, tức thì có một ngự sử dâng sớ đề nghị hai vị thái hậu ra “thùy liêm thính chính”. Sở dĩ đời Đường, vua Đường Cao tông bàn việc nước với các đại thần tại triều đường, hoàng hậu Võ Tắc Thiên ngồi sau ngai vua buông rèm xuống để nghe ngóng và tham gia quyết định việc nước. Vì vậy, sau này thái hậu nắm triều chính được gọi là “thùy liêm thính chính".
Tranh chân dung Võ Tắc Thiên đời nhà Thanh
Đề nghị đó bị Túc Thuận và những người khác kịch liệt phản đối, nói là triều đình nhà Thanh không có lệ này. Đối với Từ An thái hậu là người không có dã tâm thì không sao, nhưng đối với Từ Hy thì bà ta mang hận trong lòng. Trước hết bà cố để Từ An thái hậu tin rằng một số cố mệnh đại thần ấy rắp tâm làm phản, sau đó được sự đồng ý của Từ An, bà mật triệu Cung thân vương Dịch Hân tới “Ly cung” ở tỉnh Nhiệt Hà bàn mưu tính kế đối phó. Lúc bấy giờ, để củng cố được thế lực của mình, nhóm Túc Thuận từng trăm phương nghìn kế đề phòng Cung thân vương ở Bắc Kinh và thái hậu ở “Ly cung”. Có nhiều lời đồn về việc hai thái hậu làm thế nào tránh được tai mắt của nhóm Túc Thuận để liên hệ với Cung thân vương. Có người nói chỉ dụ của thái hậu là do một người làm bếp trong cung bí mật đem đến Bắc Kinh, lại có người nói Từ Hy cố tình công khai đánh mắng thái giám tâm phúc của bà ta là An Đức Hải rồi ra lệnh giải về nội triều ở Bắc Kinh để xử, và như vậy An Đức Hải đã mang chỉ dụ tới Bắc Kinh. Dù sao chỉ dụ cũng đã tới tay Cung thân vương. San khi được chỉ dụ, Cung thân vương đã lập tức gửi sớ tới “Ly cung” yêu cầu được vào triều yết vua. Túc Thuận lấy cớ “trách nhiệm quan trọng ở lại trông giữ Bắc Kinh” để ngăn cản nhưng không xong, y lại vin phép tắc “chị dâu và em chồng không được chuyện trò với nhau” để ngăn cản Cung thân vương gặp hai bà thái hậu, nhưng cũng không thành. Về việc Cung thân vương gặp hai thái hậu sau này có nhiều lời đồn, người thì nói Cung thân vương giả làm thầy mo lẩn vào được “Ly cung”, kẻ thì nói Cung thân vương “chiếu tướng” Túc Thuận rằng: “Nếu như chị dâu em chồng gặp nhau không tiện, thì ông hãy đứng tại chỗ mà giám sát”.
Túc Thuận ngượng mặt quá đành phải nhượng bộ. Có người nói khi Cung thân vương đi cúng linh vị vua Hàm Phong, Từ Hy thái hậu sai An Đức Hải đem thưởng cho y một bát mì, trong bát có chỉ dụ của Từ Hy. Tóm lại, bất kỳ lời đồn nào đáng tin hay không tin, cuối cùng vẫn là Cung thân vương Dịch Hân đã gặp Từ Hy thái hậu và bàn bạc cụ thể mọi việc. Kết quả là sau khi hai bà thái hậu trở về Bắc Kinh, Dịch Hân liền được phong Nghị chính vương, còn Di thân vương Tải Viên và Trịnh thân vương Đoan Hoa thì “được” ban cho “tự vẫn”, Túc Thuận bị chém, năm cố mệnh đại thần khác đều bị giam hoặc sung quân. Niên hiệu của Tải Thuần cũng bị đổi là “Đồng Trị”, có nghĩa là hai bà thái hậu cùng nắm triều chính. Và từ đó bắt đầu 47 năm lịch sử “thuỳ liêm thính chính” của Từ Hy thái hậu trong hai thời vua Đồng Trị và Quang Tự. Công trạng của ông nội tôi trong cuộc đảo chính này là bắt được Túc Thuận tại Bán Bích Điếm trên đường y hộ tống quan tài vua Hàm Phong về Bắc Kinh, vì vậy được ban hàng loạt phẩm tước như đã kể trên.