Johnny Lê Nữu Vượng
Cái nồi có lắp
SỰ YẾU KÉM VỀ CÔNG NGHỆ LUYỆN KiM VIỆT NAM
Nếu không có ngành luyện kim phát triển thì không mong mỏi một nền công nghiệp chế tạo tân tiến, đó là sự thật!
Nếu từng học địa lý kinh tế Việt Nam thì chắc chắn đã từng nghe qua cụm từ “ngành công nghiệp mũi nhọn”, “công nghiệp trọng điểm”, với người học thường hiểu theo nghĩa quy nạp chung chung là “những ngành quan trọng”.
Mấy thập kỷ đổi mới, kết quả rất rõ, nhưng vẫn phải nói rằng, chừng đó là chưa đủ để “bắt kịp”, “sánh bằng”…, đến bây giờ khó ai tìm được đâu là ngành công nghiệp mà Việt Nam vượt trội so với khu vực và thế giới, nếu không muốn nói - phải dẫn đầu vì chúng ta hầu như có đủ mọi điều kiện để tạo dựng.
Tôi lấy ví dụ, ngành khai khoáng và luyện kim, cái cần nhất của ngành này là tài nguyên có sẵn dưới lòng đất - nước ta không thiếu, một vài loại có trữ lượng lớn thuộc top thế giới như boxit, sắt, kẽm, thiếc, than…
Qúa trình Luyện kim bao gồm các quá trình sau:
Bước 1: Xử lý quặng thô ( bao gồm quá trình nghiền, tuyển lựa, đóng bánh, vê viên để chuẩn bị cho việc tách kim loại khỏi quặng ); Quặng được “đóng bánh” ( đóng thành cục khối lớn ) nhằm tăng cường độ bền và có được kích thước phù hợp cho quá trình luyện kim trong lò;
Bước 2: Tách kim loại ra khỏi quặng và tất cả các vật liệu;
Bước 3: Làm sạch kim loại và ( tinh luyện );
Bước 4: Sản xuất các kim loại và hợp kim;
Bước 5: Sản xuất các loại bột kim loại sạch và những loại nguyên tử Cacbit để phục vụ cho các quá trình chế tạo ra vật liệu tổ hợp ( hay còn gọi là composite ) có cơ tính đặc biệt vượt trội hơn so với các Kim loại, và các hợp kim thông thường.
Bước 6: Sau đó tại lò công nhân chế tạo các ferro ( hoặc silicomangan.. ) và hợp kim trung gian để phục vụ cho luyện kim.
Bước 7: Đúc khuôn sản phẩm, đây là quá trình đúc làm đông đặc kim loại lỏng trong các loại khuôn ( khuôn kim loại, khuôn cát, khuôn đúc liên tục..) một số sản phẩm đúc hiện nay có thể sử dụng được ngay hoặc tạo ra phôi cho quá trình gia công các biến dạng khác ( cán, rèn dập… )
Bước 8: Sau đó phôi sẻ trải qua quá trình ”Cán“. Đây là quá trình làm biến dạng phôi kim dẻo loại, giữa 2 trục tròn xoay. Sản phẩm sẽ có hình học đơn giản (hình tròn, hình vằn, hình vuông, hình thoi..) đến phức tạp (đường ray, chữ U I…)
Bước 9: Chuyển tới quá trình Nhiệt luyện bao gồm: Nung nóng, giữ nhiệt và quá trình làm nguội. Tùy vào cách nung nóng của mỗi kĩ sư, cách giữ nhiệt và làm nguội khác nhau ta có các công đoạn ” Tôi ” ” Ram ” Ủ” là những nguyên công chủ đạo quan trọng của nhiệt luyện. Ngoài ra còn các quá trình ” thấm ” để đạt được cơ tính mạnh bề mặt theo nhu cầu. Hầu hết các sản phẩm được gia công cơ khí không thể sử dụng ngay nếu không qua quá trình nhiệt luyện.
Bước 10: Gia công hoá nhiệt và quá trình cơ nhiệt đối với kim loại;
Bước 11: Tráng phủ bề mặt sản phẩm kim loại để có thể bảo vệ hoặc trang trí và tạo khuếch tán những kim loại hay phi kim loại khác và trênbề mặt sản phẩm.
Nhưng hiện nay đến cái kim, lưỡi dao cạo râu, bấm móng tay… phải nhập phôi về gia công thành phẩm vì sản xuất những cái này yêu cầu kỹ thuật công nghệ cao. Đó là những chuyện tưởng chừng rất nhỏ, song đặt ra vấn đề vô cùng lớn.
Lớn ở chỗ, khi ngành luyện kim (đặc biệt luyện kim màu) kém cỏi thì nền công nghiệp phụ trợ không thể nào phát triển được.
Từng có câu chuyện xôn xao Việt Nam không thể sản xuất được con ốc, vít - cứ cho là thông tin này chưa chính xác, nhưng nếu sản xuất được mà giá thành cao hơn Trung Quốc, Thái Lan thì phỏng có ý nghĩa gì?
Có! Nếu nước bị xâm lăng, hay bị phong toả cảng biển, phôi đâu nhập về sản xuất vít cho xe tăng, vũ khí? Súng AK lấy đâu phôi thép đúc nòng? Hay Nga bây giờ là 1 nước phải đi nhập khẩu đạn pháo của Triều Tiên, thử hỏi Việt Nam trông mong gì tương lai mua được phôi thép làm AK từ Nga?
Những năm 60, 70 của thế kỷ trước, nhờ tiến bộ vượt bậc trong ngành luyện kim nên Nhật Bản trở thành nước sản xuất ôtô hàng đầu thế giới. Hàn Quốc cũng đi theo con đường tương tự...
Có kinh nghiệm từ lịch sử lâu dài và tài nguyên dồi dào, đáng lẽ ra, Việt Nam đã là cường quốc luyện kim mới phải. Câu chuyện lại dẫn chúng ta đến với cơ chế chính sách.
Có mấy nguyên nhân cơ bản: Thứ nhất, nhiều năm chạy theo tăng trưởng bằng “lượng” đáp ứng “chỉ tiêu giao khoán” nên bán thô tài nguyên là thứ dễ kiếm tiền nhất, đặc biệt đối với than, sắt, dầu mỏ có từ thời Pháp thuộc.
Thứ hai, bao cấp ngành luyện kim lâu năm khiến ngành này què quặt, mất hết động lực đổi mới sáng tạo, thậm chí dẫn đến thua lỗ, phá sản như gang thép Thái Nguyên, Vinachem…
Thứ ba, các trung tâm đào tạo nhân lực, nghiên cứu phát minh ứng dụng trong ngành luyện kim hầu như trống trơn, thật sự Việt Nam không có nhiều chuyên gia tiếng tăm trong lĩnh vực này.
Thêm một nguyên nhân mang tính chất “địa chính trị” nhưng không kém phần quan trọng, đó là ở gần Trung Quốc - chúng ta quá quen với việc có một nhà cung ứng sản phẩm luyện kim vừa rẻ, vừa phong phú, lâu dần nảy sinh tâm lý ỷ lại dẫn đến phụ thuộc rồi tự nguỵ biện bản thân. Giá rẻ giá thấp mua luôn Trung Quốc cho tiện
Nhiều người lấy con số tăng lên của tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế để minh chứng cho nền công nghiệp nước ta “không đến nỗi nào” - không sai, nhưng sự thật không phản ánh hoàn toàn ở các báo cáo mang tính vĩ mô.
Bê bối của Khaisilk khoảng 4 năm trước phần nào hé lộ góc khuất trong ngành công nghiệp truyền thống, hiện nay người Việt Nam không còn giữ được những gì gọi là thế mạnh trong quá khứ, đó là ngành công nghiệp tơ tằm, vải vóc - nó xứng đáng để biến thành sản phẩm được thế giới trầm trồ ngưỡng mộ chứ!
Vì sao Việt Nam không trở thành trung tâm nguồn cung nguyên liệu may mặc chất lượng cao, mà là trở thành nơi gia công quần áo, giày dép khổng lồ về “lượng” nhưng hạn chế về “chất”. Thậm chí chúng ta không thể học hỏi gì thêm nếu chỉ gia công.
Vì sao người Hà Lan trồng hoa mà trở nên nổi tiếng, chiếm hết thị phần hoa toàn cầu? Vì họ xem hoa là ngành công nghiệp thật sự, họ không đứng núi này trông núi nọ, họ không “đẽo cày giữa đường” như chúng ta…
Hoặc, đất nước Peru xa xôi chỉ hầu như chỉ có biển, và họ biết cách xoay xở để trở thành cường quốc ngư nghiệp hàng đầu thế giới, vì họ không bị cuốn theo mô hình của bất kỳ ai. Nhìn về các cuộc cách mạng công nghiệp, luôn có một điểm chung đó là hàng loạt phát minh mới được công bố trước mỗi cuộc cách mạng - hay nói cách khác chính phát minh sáng tạo là “bà đỡ” cho công nghiệp.
Khoa học chưa phát triển thì không thể nào có kỹ thuật tiên tiến, mong chờ nước ngoài chuyển giao công nghệ là lạc quan tếu - vì không ai dại dột cho không biếu không “bí quyết hùng cường” - nếu có, đó là thứ lạc hậu rách nát đã bỏ đi thì có thể mua rồi cải tiến
Kết quả, chúng ta hầu như phụ thuộc vào ngành “công nghiệp đạp chân” và các doanh nghiệp FDI. Dĩ nhiên, gia công lắp ráp từng là xu thế (khát khao) của các nước đang phát triển, nhưng nó chỉ có tác dụng thời điểm nhất định. Vì lợi thế dân số trẻ, giá lao động rẻ, tài nguyên… không phải là đại lượng vô hạn.
Vậy nên, bây giờ chúng ta mong muốn trở thành hoá rồng? Hoá cọp: Phát triển công nghiêp phải bắt đầu từ những thứ cơ bản nhất: Luyện Kim phải tự lập tự mua tài liệu mà học rồi xin chuyển giao mua bản quyền những thứ đã lạc hậu rồi cải tiến dần.
Nếu không có ngành luyện kim phát triển thì không mong mỏi một nền công nghiệp chế tạo tân tiến, đó là sự thật!
Nếu từng học địa lý kinh tế Việt Nam thì chắc chắn đã từng nghe qua cụm từ “ngành công nghiệp mũi nhọn”, “công nghiệp trọng điểm”, với người học thường hiểu theo nghĩa quy nạp chung chung là “những ngành quan trọng”.
Mấy thập kỷ đổi mới, kết quả rất rõ, nhưng vẫn phải nói rằng, chừng đó là chưa đủ để “bắt kịp”, “sánh bằng”…, đến bây giờ khó ai tìm được đâu là ngành công nghiệp mà Việt Nam vượt trội so với khu vực và thế giới, nếu không muốn nói - phải dẫn đầu vì chúng ta hầu như có đủ mọi điều kiện để tạo dựng.
Tôi lấy ví dụ, ngành khai khoáng và luyện kim, cái cần nhất của ngành này là tài nguyên có sẵn dưới lòng đất - nước ta không thiếu, một vài loại có trữ lượng lớn thuộc top thế giới như boxit, sắt, kẽm, thiếc, than…
Qúa trình Luyện kim bao gồm các quá trình sau:
Bước 1: Xử lý quặng thô ( bao gồm quá trình nghiền, tuyển lựa, đóng bánh, vê viên để chuẩn bị cho việc tách kim loại khỏi quặng ); Quặng được “đóng bánh” ( đóng thành cục khối lớn ) nhằm tăng cường độ bền và có được kích thước phù hợp cho quá trình luyện kim trong lò;
Bước 2: Tách kim loại ra khỏi quặng và tất cả các vật liệu;
Bước 3: Làm sạch kim loại và ( tinh luyện );
Bước 4: Sản xuất các kim loại và hợp kim;
Bước 5: Sản xuất các loại bột kim loại sạch và những loại nguyên tử Cacbit để phục vụ cho các quá trình chế tạo ra vật liệu tổ hợp ( hay còn gọi là composite ) có cơ tính đặc biệt vượt trội hơn so với các Kim loại, và các hợp kim thông thường.
Bước 6: Sau đó tại lò công nhân chế tạo các ferro ( hoặc silicomangan.. ) và hợp kim trung gian để phục vụ cho luyện kim.
Bước 7: Đúc khuôn sản phẩm, đây là quá trình đúc làm đông đặc kim loại lỏng trong các loại khuôn ( khuôn kim loại, khuôn cát, khuôn đúc liên tục..) một số sản phẩm đúc hiện nay có thể sử dụng được ngay hoặc tạo ra phôi cho quá trình gia công các biến dạng khác ( cán, rèn dập… )
Bước 8: Sau đó phôi sẻ trải qua quá trình ”Cán“. Đây là quá trình làm biến dạng phôi kim dẻo loại, giữa 2 trục tròn xoay. Sản phẩm sẽ có hình học đơn giản (hình tròn, hình vằn, hình vuông, hình thoi..) đến phức tạp (đường ray, chữ U I…)
Bước 9: Chuyển tới quá trình Nhiệt luyện bao gồm: Nung nóng, giữ nhiệt và quá trình làm nguội. Tùy vào cách nung nóng của mỗi kĩ sư, cách giữ nhiệt và làm nguội khác nhau ta có các công đoạn ” Tôi ” ” Ram ” Ủ” là những nguyên công chủ đạo quan trọng của nhiệt luyện. Ngoài ra còn các quá trình ” thấm ” để đạt được cơ tính mạnh bề mặt theo nhu cầu. Hầu hết các sản phẩm được gia công cơ khí không thể sử dụng ngay nếu không qua quá trình nhiệt luyện.
Bước 10: Gia công hoá nhiệt và quá trình cơ nhiệt đối với kim loại;
Bước 11: Tráng phủ bề mặt sản phẩm kim loại để có thể bảo vệ hoặc trang trí và tạo khuếch tán những kim loại hay phi kim loại khác và trênbề mặt sản phẩm.
Nhưng hiện nay đến cái kim, lưỡi dao cạo râu, bấm móng tay… phải nhập phôi về gia công thành phẩm vì sản xuất những cái này yêu cầu kỹ thuật công nghệ cao. Đó là những chuyện tưởng chừng rất nhỏ, song đặt ra vấn đề vô cùng lớn.
Lớn ở chỗ, khi ngành luyện kim (đặc biệt luyện kim màu) kém cỏi thì nền công nghiệp phụ trợ không thể nào phát triển được.
Từng có câu chuyện xôn xao Việt Nam không thể sản xuất được con ốc, vít - cứ cho là thông tin này chưa chính xác, nhưng nếu sản xuất được mà giá thành cao hơn Trung Quốc, Thái Lan thì phỏng có ý nghĩa gì?
Có! Nếu nước bị xâm lăng, hay bị phong toả cảng biển, phôi đâu nhập về sản xuất vít cho xe tăng, vũ khí? Súng AK lấy đâu phôi thép đúc nòng? Hay Nga bây giờ là 1 nước phải đi nhập khẩu đạn pháo của Triều Tiên, thử hỏi Việt Nam trông mong gì tương lai mua được phôi thép làm AK từ Nga?
Những năm 60, 70 của thế kỷ trước, nhờ tiến bộ vượt bậc trong ngành luyện kim nên Nhật Bản trở thành nước sản xuất ôtô hàng đầu thế giới. Hàn Quốc cũng đi theo con đường tương tự...
Có kinh nghiệm từ lịch sử lâu dài và tài nguyên dồi dào, đáng lẽ ra, Việt Nam đã là cường quốc luyện kim mới phải. Câu chuyện lại dẫn chúng ta đến với cơ chế chính sách.
Có mấy nguyên nhân cơ bản: Thứ nhất, nhiều năm chạy theo tăng trưởng bằng “lượng” đáp ứng “chỉ tiêu giao khoán” nên bán thô tài nguyên là thứ dễ kiếm tiền nhất, đặc biệt đối với than, sắt, dầu mỏ có từ thời Pháp thuộc.
Thứ hai, bao cấp ngành luyện kim lâu năm khiến ngành này què quặt, mất hết động lực đổi mới sáng tạo, thậm chí dẫn đến thua lỗ, phá sản như gang thép Thái Nguyên, Vinachem…
Thứ ba, các trung tâm đào tạo nhân lực, nghiên cứu phát minh ứng dụng trong ngành luyện kim hầu như trống trơn, thật sự Việt Nam không có nhiều chuyên gia tiếng tăm trong lĩnh vực này.
Thêm một nguyên nhân mang tính chất “địa chính trị” nhưng không kém phần quan trọng, đó là ở gần Trung Quốc - chúng ta quá quen với việc có một nhà cung ứng sản phẩm luyện kim vừa rẻ, vừa phong phú, lâu dần nảy sinh tâm lý ỷ lại dẫn đến phụ thuộc rồi tự nguỵ biện bản thân. Giá rẻ giá thấp mua luôn Trung Quốc cho tiện
Nhiều người lấy con số tăng lên của tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế để minh chứng cho nền công nghiệp nước ta “không đến nỗi nào” - không sai, nhưng sự thật không phản ánh hoàn toàn ở các báo cáo mang tính vĩ mô.
Bê bối của Khaisilk khoảng 4 năm trước phần nào hé lộ góc khuất trong ngành công nghiệp truyền thống, hiện nay người Việt Nam không còn giữ được những gì gọi là thế mạnh trong quá khứ, đó là ngành công nghiệp tơ tằm, vải vóc - nó xứng đáng để biến thành sản phẩm được thế giới trầm trồ ngưỡng mộ chứ!
Vì sao Việt Nam không trở thành trung tâm nguồn cung nguyên liệu may mặc chất lượng cao, mà là trở thành nơi gia công quần áo, giày dép khổng lồ về “lượng” nhưng hạn chế về “chất”. Thậm chí chúng ta không thể học hỏi gì thêm nếu chỉ gia công.
Vì sao người Hà Lan trồng hoa mà trở nên nổi tiếng, chiếm hết thị phần hoa toàn cầu? Vì họ xem hoa là ngành công nghiệp thật sự, họ không đứng núi này trông núi nọ, họ không “đẽo cày giữa đường” như chúng ta…
Hoặc, đất nước Peru xa xôi chỉ hầu như chỉ có biển, và họ biết cách xoay xở để trở thành cường quốc ngư nghiệp hàng đầu thế giới, vì họ không bị cuốn theo mô hình của bất kỳ ai. Nhìn về các cuộc cách mạng công nghiệp, luôn có một điểm chung đó là hàng loạt phát minh mới được công bố trước mỗi cuộc cách mạng - hay nói cách khác chính phát minh sáng tạo là “bà đỡ” cho công nghiệp.
Khoa học chưa phát triển thì không thể nào có kỹ thuật tiên tiến, mong chờ nước ngoài chuyển giao công nghệ là lạc quan tếu - vì không ai dại dột cho không biếu không “bí quyết hùng cường” - nếu có, đó là thứ lạc hậu rách nát đã bỏ đi thì có thể mua rồi cải tiến
Kết quả, chúng ta hầu như phụ thuộc vào ngành “công nghiệp đạp chân” và các doanh nghiệp FDI. Dĩ nhiên, gia công lắp ráp từng là xu thế (khát khao) của các nước đang phát triển, nhưng nó chỉ có tác dụng thời điểm nhất định. Vì lợi thế dân số trẻ, giá lao động rẻ, tài nguyên… không phải là đại lượng vô hạn.
Vậy nên, bây giờ chúng ta mong muốn trở thành hoá rồng? Hoá cọp: Phát triển công nghiêp phải bắt đầu từ những thứ cơ bản nhất: Luyện Kim phải tự lập tự mua tài liệu mà học rồi xin chuyển giao mua bản quyền những thứ đã lạc hậu rồi cải tiến dần.