Có Hình Bố tôi là Đặng Tiểu Bình - Hồi ký của con gái thứ về người cha thiên tài của mình

Cuốn sách này được dịch từ nguyên bản tiếng Hoa "Ngã đích phụ thân Đặng Tiểu Bình" của Nhà xuất bản Văn hiến Trung ương, tháng 8 năm 2000.

“Cha tôi Đặng Tiểu Bình” là một cuốn tự truyện viết bởi Mao Mao, con gái thứ của Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình có hai người vợ, (theo như trong sách là như vậy, tôi thấy trên wiki ghi là ba). Người vợ đầu tiên chết trong cách mạng, sau ông có một người vợ khác tên là Trác Căn. Ông có năm người con: Đặng Lâm (trưởng nữ), Đặng Phác Phương (con thứ nhưng trưởng nam), Đặng Nam, Đặng Dung (là Mao Mao), Đặng Chất Phương (tên cúng cơm là Phi Phi).

Mười năm "cách mạng văn hóa" là tai họa lớn trong lịch sử hiện đại Trung Quốc. Mức độ ảnh hưởng sâu sắc của nó, sự phá hoại ghê gớm của nó là điều chưa từng có trong lịch sử. Phàm những ai trải qua "cách mạng văn hóa" đều khắc cốt ghi xương thời ký đó. Đặng Tiểu Bình là một nhân vật trọng yếu mà mười năm "cách mạng văn hóa" nhằm tới. Viết về "cách mạng văn hóa" không thể không viết về Đặng Tiểu Bình.

"Cha tôi là nhân vật trọng yếu mà mười năm"cách mạng văn hóa" nhằm tới; viết về "cách mạng văn hóa", không thể không viết về cha tôi. Mà mười năm "cách mạng văn hóa" lại là giai đoạn thăng trầm vô cùng lý thú của cha tôi, cho nên viết về Đặng Tiểu Bình thì cũng không thể không nói đến "cách mạng văn hóa". Viết về những gì cha tôi nếm trải trong thời kỳ "cách mạng văn hóa" vừa là nhớ lại cuộc sống phi thường của cha tôi, vừa là nhớ lại những năm tháng phí hoài. Những điều tôi viết dưới đây không thể gọi là truyện ký về cha tôi, cũng không phải là hồi ký của cá nhân tôi. Trong khi chưa biết nên xếp vào loại nào, tôi tạm gọi nó là "Sổ ghi chép tình cảm" vậy!

Mong mọi người khi đọc các ghi chép tình cảm này, sẽ cảm nhận lại được thời kỳ "cách mạng văn hóa" thuở nào.
 
1. Năm 1966 lắm chuyện

Ngày 16.5.1966, hội nghị Bộ Chính trị Đảng Сộng sản Trung quốc mở rộng thông qua “Thông cáo của Ban thường vụ Trung ương Đảng Сộng sản Trung quốc”, tức là Thông cáo 16-5. Việc này đánh dấu cho sự bùng nổ cuộc Đại cách mạng văn hoá của giai cấp vô sản chưa từng có trong lịch sử.

Cách mạng văn hoá bùng nổ, chẳng phải chuyện ngẫu nhiên, mà nó là sản phẩm tất yếu của sai lầm tả khuynh, phát triển tới chỗ cực đoan trong nội bộ đảng.

Sau ngày lập quốc, qua hơn bảy năm thực tiễn xây dựng, cải tạo thành công của xã hội chủ nghĩa, với sự ánh hưởng của rất nhiều nhân tố trong nước, ngoài nước, trong nội bộ đảng ta đã bắt dầu lan tràn triền miên một loại siêu thắng lợi và tự mãn, cùng với cái đầu nóng hổi chứa đầy những hớn hở và kiêu ngạo. Đã đánh giá hiện thực và thành tựu quá cao, nóng lòng bước vào chủ nghĩa Сộng sản, đã làm nảy sinh, phát triển những biện pháp không thiết thực, nên đã có những hành động mạo hiểm, tai hại, vi phạm quy luật kinh tế. Sau nhiều lần vật vã, lý luận “tả” đã dần dần được nâng cấp, cuối cùng đã chiếm được thượng phong trong nội bộ đảng. Đồng thời với điều đó, trên cơ sở tình hình dân chủ trong nội bộ đảng ngày càng sút kém, sùng bái cá nhân, độc đoán chuyên quyền ngày càng phát triển, sinh hoạt trong nội bộ đảng cũng thất thường. Việc đánh giá sai lầm tình hình quốc tế, quốc nội, đặc biệt là lình hình đấu tranh giai cấp, khiến lúc đó Mao Trạch Đông đã tạo dựng được một uy quyền tuyệt đối, khiến Mao Trạch Đông càng ngày càng gay gắt và không chấp nhận những ý kiến bất đồng, nên đã chọn lựa những hành động vô cùng sai lầm, mà bắt đầu từ mặt chính sách, mặt tổ chức, cuối cùng đặt quyết lâm vào mặt nhân sự, trừ khử tất cả những trở lực và chướng ngại để bảo đảm đường lối cách mạng mà ông ta cho rằng hết sức chính xác được thực thi một cách không thuận và suôn sẻ.

Mở đầu năm 1966, tưởng chừng như chẳng có gì khác năm xưa. Vẫn ngày “Tam Cửu” nghiêm hàn, vẫn gió ấc ào ào quét thổi. Nắng mùa đông chiếu rọi trên mặt đất, làm cho vạn vật sinh sôi nảy nở. Sau khi trải qua thời kỳ vất vả khó khăn, do sự nỗ lực nhiều mặt từ trung ương đến địa phương, tình hình kinh tế đã có chuyển biến lớn, rất tốt. Những khó khăn khổng lồ do thiên nhiên cũng như những nguyên nhân khác đem tới đã được khắc phục. Gánh nặng nhọc nhằn trong lòng mọi người đã được giảm nhẹ, những cái nhíu mày cau có đã được giãn ra. Trung ương đảng cũng đang phóng tầm mắt nhìn vào tương lai, hội họp, bàn bạc về kế hoạch năm năm lần thứ ba. Tuy ăn uống vẫn phải theo định lượng, vật tư hàng hoá thiếu thốn, nhưng dù sao, về cơ bản, mọi người đã được ăn no, có thể sinh sống, làm việc với tâm tình tương đối thanh thản. Mọi người, với trái tim thiện lương của mình, hy vọng vào một năm tới có những ngày tháng yên ấm hơn, cuộc sống càng có thêm ý nghĩa, xây dựng một tổ quốc xã hội chủ nghĩa tốt đẹp hơn. Nhưng sự tiến triển của mọi việc luôn luôn vượt ra ngoài dự liệu của mọi người, hơn thế, nó còn thường vượt ra ngoài ước nguyện của những người lương thiện và chất phác.

Mọi người hình như không chú ý rằng, một năm trước đó, lức là vào cuối năm 1965 đã từng xảy ra mấy sự kiện chẳng ai ngờ tới. Ngày 10.11.1965 trên báo Văn hối xuất bản ở Thượng Hải có in một bài viết của Diêu Văn Nguyên: “Phê bình vở kịch lịch sử mới viết lại: Hải Thuỵ bãi quan” đã phê bình nhà sử học Ngô Hàm, người đã soạn và sáng tác lại vở kịch Hải Thuỵ bãi quan, đồng thời nhân đó phê phán cung cách gọi là “đòi lật án” của Bành Đức Hoài.

Bài này chính là do Giang Thanh và Trương Xuân Kiều âm mưu bàn bạc vạch ra, rồi do Diêu Văn Nguyên chấp bút.

Tháng 2.1965, Giang Thanh tới Thượng Hải, được sự hỗ trợ của Kha Khánh Thi, Bí thư thứ nhất của thị uỷ Thượng Hải cùng với Trương Xuân Kiều bàn tính, rồi do Diêu Văn Nguyên dồn sức viết ra bài báo phê phán trên. Bài đó trước sau sau đã được Mao Trạch Đông đọc duyệt ba lần, mới cho phép in ra. Bài báo đó nhằm mục đích phê phán chính trị cực kỳ mạnh mẽ, nó đã có ảnh hưởng rất to lớn đối với cuộc bùng nổ Cách mạng văn hoá sau này. Sự tính toán cho bài báo “xuất chuồng” đã trải qua một quá trình cẩn mật rất dài đồng thời nó được tiến hành trong tình trạng bí mật tuyệt đối đối với tất cả mọi người trong Bộ chính trị Trung ương đảng Сộng sản Trung quốc.

Bài báo đó sau khi được tung ra ở Thượng Hải, các vị lãnh đạo trung ương chủ trì công tác ở Bắc Kinh, vì chẳng hiểu đầu cuối ra sao, nên cũng chẳng ai ai chú ý. Đối với bài báo này, Ban bí thư trung ương giữ thái độ trung dung và thận trọng. Bố tôi là tổng bí thư, ông không tán thành việc phê phán Ngô Hàm, khi Bành Chân nói cho ông biết về tâm trạng nặng nề của Ngô Hàm, ông đáp:

- Vở Hải Thuỵ bãi quan do Mã Liên Lương diễn tôi đã xem qua rồi, có gì là sai đâu. Có một số người luôn luôn muốn đạp lên đầu người khác mà bò lên. Đối với mỗi người, họ mới chỉ biết lỗ mỗ, nửa vời mà đã phê phán tung hoăng, tự đề cao mình. Đối với loại người như thế tôi coi khinh. Ông hãy nói với giáo sư rằng, chẳng có gì ghê gớm lắm đâu, ta cứ đánh bài với nhau như cũ. Chính trị là học thuật cần phải phân định cho rõ ràng ra, đem trộn lại làm một là điều tối nguy hiểm, và sẽ làm tắc đường ngôn luận.​
 
Sửa lần cuối:
1. Năm 1966 lắm chuyện (tiếp)

Bố tôi vẫn đánh bài với Ngô Hàm như thường lệ, và nói với Ngô Hàm:

- Giáo sư ạ đừng có thở vắn than dài như thế, việc gì cũng đòi hỏi sự lạc quan. Sợ cái gì, trời có sụp xuống được không?. Năm nay tôi đã sáu mươi tuổi rồi, kể từ khi tôi tham gia cách mạng tới nay, kinh nghiệm của tôi đều nằm trong hai điều này: thứ nhất, không biết sợ, thứ hai là lạc quan, nhìn về phía trước, nhìn ra xa, mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn. Có chúng tôi đẩy ông lên phía trước, ông cứ yên tâm!

Bố tôi không tán thành cái kiểu phê phán như thế, nên đã an ủi Ngô làm, định bảo vệ Ngô Hàm, nhưng không ngờ rằng, tình thế lại phát triển một cách mau lẹ, thoát hẳn ra khỏi quỹ đạo bình thường. Ban bí thư trung ương, sau khi nắm bắt được những ẩn ý nằm sau bài báo của Diêu Văn Nguyên, đành phải để tất cả báo chí ở Bắc Kinh đăng lại. Nhìn bề nổi mà nói, đây chẳng qua chỉ là một việc làm sơ suất, nhưng chính sự kiện này đã là sợi dây cháy chậm, dẫn tới nỗi bất bình của Mao Trạch Đông, rồi dần dần biến thành một cơn giông bão chính trị to lớn.

Cũng vào tháng 11.1965, Dương Thượng Côn, chủ nhiệm Văn phòng trung ương Đảng, bí thư dự khuyết Ban bí thư trung ương Đảng Сộng sản Trung quốc, bị miễn chức, tội danh là “tự đặt thiết bị nghe trộm lừa dối trung ương”. Gia đình nhà Dương Thượng Côn và gia đình nhà tôi vốn là chỗ đi lại rất thân thiết. Khi Mao Trạch Đông đưa ra quyết định xử lý Dương Thượng Côn, cha tôi lại nhận định rằng, Dương Thượng Côn chẳng có vấn đề gì lớn cả. Sau này, khi bị bức phải “kiểm điểm”, cha tôi đã từng nói rằng: Ông đã từng có thời kỳ dài không nhận thức được hành vi “đặc vụ” này, là một Tổng bí thư, sự xử lý của ông đã không kịp thời, lại không thực tế. Kiểu “kiểm điểm” đó chứng tỏ rằng, đối với việc phê phán Dương Thượng Côn, cha tôi không tán thành và cũng chẳng cho chuyện đó là đúng. Dương Thượng Côn từ trung ương bị điều về công tác ở Quảng Đông, cha tôi còn đưa con gái ông, còn lưu lại Bắc Kinh học tập, về nhà tôi ở một thời gian.

Nếu như nói, việc phê phán Dương Thượng Côn còn có thể tính là một sự kiện tương đối riêng rẽ, thì những sự việc xảy ra sau đó, ý nghĩa của nó đã trở thành bất thường. Đó là tháng 12 năm ấy, Lâm Bưu, phó chủ tịch trung ương Đảng Сộng sản Trung quốc, phó chủ tịch Quân uỷ trung ương phụ trách công tác quân đội, vốn ôm ấp một mục đích không thể thổ lộ cùng ai, đã vu cáo La Thuỵ Khanh, bí thư Ban bí thư trung ương Đảng Сộng sản Trung quốc, tổng tham mưu trưởng Giải phóng quân, có ý đồ lật đổ trong quân đội. Mao Trạch Đông đã tin lời vu cáo đó của Lâm Bưu, nên đã đích thân triệu tập hội nghị mở rộng Ban thường vụ Bộ Chính trị trung ương Đảng Сộng sản Trung quốc tại Thượng Hải để vạch tội và phê phán vắng mặt La Thuỵ Khanh.

Theo hồi ức của mẹ tôi, lần ấy ở Thượng Hải, không khí của hội nghị vô cùng căng thẳng, tất cả những người có mặt ở hội nghị đều đã mất hết sự hoà hợp và cười nói vui vẻ trước kia. Văn kiện của hội nghị ngay đến bí thư cũng không được xem. Mẹ tôi hiểu ngay rằng chắc chắn phải có chuyện gì dấy, nhưng không dám hỏi. Cha tôi lại chẳng nói điều gì, suốt ngày trầm ngâm, nghiêm túc hiếm thấy. Ngày 10.12, sau khi trung ương dùng chuyên cơ đón vợ chồng La Thuỵ Khanh tới Thượng Hải, Mao Trạch Đông liền phái Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình đến gặp và nói chuyện với La Thuỵ Khanh.

Hôm đó, cha tôi nói với mẹ tôi rằng: Hôm nay chúng tôi đi gặp La Thuỵ Khanh. Bà cũng nên đi thăm Hách Trị Bình, khuyên giải bà ấy.

Trên ô-tô, mẹ tôi thấy nét mặt bố tôi và Chu Ân Lai đầy vẻ âm thầm, chẳng nói năng câu nào, bà chẳng biết lý do vì sao, nhưng trong lòng cũng đầy lo lắng căng thẳng. Đến nơi, La Thuỵ Khanh đang bị cách ly, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình và La Thuỵ Khanh nói chuyện với nhau ở tầng dưới, mẹ tôi cùng với Hách Trị Bình lên trên gác.

Mẹ tôi chỉ nói với bà Hách Trị Bình được mỗi một câu:

- Chị cứ bình tĩnh...

Đến đây mẹ tôi không thể giữ mình được nữa, và bắt đầu thút thít. Sau này, khi phê phán Đặng Tiểu Bình, phái tạo phản thường nắm lấy chuyện này, bảo rằng Đặng Tiểu Bình bao che cho La Thuỵ Khanh và bịa ra rằng: Trác Lâm và Hách Trị Bình ôm đầu khóc rống. Cha tôi đã từng nói, ông xưa nay chẳng có một chút cảm tình nào với Lâm Bưu, về căn bản không bao giờ tin vào những vu cáo ác ý của Lâm Bưu. Nên đối với việc phê phán La Thuỵ Khanh, ông giữ thái độ tiêu cực và chống đối. Sau này, khi bị kiểm điểm trong Cách mạng văn hoá, ông nói: “Tính chất nghiêm trọng của cuộc đấu tranh này, tôi vẫn không sao hiểu ra được”, nhưng rồi lại nói: Trên thực tế là làm cho La Thuỵ Khanh thoát tội”.

Sau đó, khi quân đội Bắc Kinh mở hội nghị phê phán La Thuỵ Khanh, Mao Trạch Đông đã chỉ định Đặng Tiểu Bình và một số người khác chủ trì hội nghị. Thái độ của bố tôi vẫn là thứ thái độ tiêu cực đó. Sau này ông nói:

- Tôi bị chỉ định là một trong những người chủ trì hội nghị, nhưng sau khi khai mạc, tôi lập tức đi khảo sát tuyến ba ở Tây Bắc, giao hội nghị cho Bành Chân điều khiển. Điều đó chứng tỏ rằng, tôi đã không tích cực, không nhiệt tình với lần tranh đấu này.

Việc phê phán La Thuỵ Khanh là do Lâm Bưu chế tạo ra.

Đối với hành động tội ác này của Lâm Bưu, bố tôi tỏ ra căm ghét và ác cảm. Ông thông cảm với La Thuỵ Khanh, nhưng không đủ sức lực để cứu vãn, nên bỏ đi thị sát công tác ở tỉnh xa, đó là phương thức né tránh duy nhất mà ông có thể lựa chọn lúc bấy giờ.

Phê phán Dương Thượng Côn, phê phán La Thuỵ Khanh, đã làm cho khá nhiều cán bộ cao cấp trong đảng cảm thấy khó hiểu và kinh sợ. Nhưng khi đó, những người ấy vẫn còn chưa biết rằng, một cuộc phê phán mang đầy tai họa còn to lớn hơn nhiều đang ấp ủ, nung nấu và chuẩn bị, đang gấp gáp, khẩn cấp nổ ra, khiến cho mọi người không kịp suy tính, không kịp né tránh.

Vừa bước vào năm 1966, hàng loạt sự việc, hàng lô sự kiện liên tục diễn ra không ngừng không nghỉ. Tháng giêng, Lâm Bưu triệu tập hội nghị chính trị toàn quân, gào thét “chính trị hàng đầu”, coi như một thứ lý luận chuẩn bị cho việc tiếm đoạt quyền lực.

Tháng 2.1966, dưới sự hỗ trợ của Lâm Bưu, Giang Thanh triệu tập “Hội nghị toạ đàm về công tác văn nghệ trong bộ đội” tại Thượng Hải. Tháng ba, “kỷ yếư” của cuộc toạ đàm này được đích thân Mao Trạch Đông sửa chữa, rồi tụng ca mở ra toàn quốc, đặt nền móng ban đầu cho việc dùng lực lượng quân đội tiến hành cuộc Đại cách mạng văn hoá.

Tháng 3.1966 La Thuỵ Khanh bị tước bỏ mọi chức vụ, sau đó bị tống giam vào ngục.

Cũng tháng đó, khu vực Hình Đài tỉnh Hà Bắc xảy ra động đất dữ dội, hơn 300.000 người bị tai nạn.

Vẫn tháng ấy, Mao Trạch Đông nhiều lần bàn bạc với Khang Sinh, Giang Thanh và một số người khác, nói rằng: nếu như các cơ quan trung ương làm hỏng việc, thì cần phải hiệu triệu các địa phương nổi dậy làm tạo phản. Đồng thời còn nói: cần phải giúp đỡ phái tả, thành lập đội ngũ, tiến hành Đại cách mạng văn hoá.​
 
Sửa lần cuối:
1. Năm 1966 lắm chuyện (tiếp)

Cho đến hôm nay, hơn ba mươi năm sau, ngoảnh đầu nhìn lại có lẽ bất cứ một người nào, chỉ qua bản thời gian biểu giản đơn đó, cũng cảm giác hết sức đầy đủ cái không khí nồng nặc mùi thuốc súng ấy. Nhưng khi đó, tuyệt đại bộ phận lãnh đạo trong đảng lại không từ đó ý thức ra được trận cuồng phong sắp tới với đầy trời gió rít. Ngay cả đối với những người không tỏ ra tán thành, hoặc đầy lòng nghi vấn, cũng tuyệt đối không thể tưởng tượng ra được sự tiến triển của nó về sau sẽ dẫn tới một mức độ điên cuồng, hỗn loạn để cuối cùng không làm sao điều khiển nổi nữa.

Đặng Tiểu Bình khi đó là uỷ viên thường vụ Bộ Chính trị trung ương đảng, là Tổng bí thư Ban chấp hành trung ương, hầu như hoàn toàn giống với tất cả cán bộ lãnh đạo cao cấp trong đảng. Đối với tất cả những sự kiện đã xảy ra trước đó, tuy bất đồng ý kiến và cách nhìn nhận, nhưng lại thiếu một sự cảnh giác cao, và đối với cục diện sẽ xảy ra mà mình phải đối diện sau này lại càng không có sự chuẩn bị tư tưởng thực đầy đủ để ứng phó.

Ngày 8.4.1966, Khang Sinh gọi điện thoại cho Đặng Tiểu Bình về Bắc Kinh ngay lập tức. Khi đó, Đặng Tiểu Bình cùng với Lý Phú Xuân, Bạc Nhất Ban, một số cán bộ lãnh đạo các bộ của Quốc vụ viện đi thị sát công tác vùng Tây Bắc. Suốt dọc đường, mọi cuộc thảo luận, tính toán của họ chỉ là những vấn đề phát triển kinh tế vùng Tây Bắc ra sao, và xây dựng tuyến ba này như thế nào. Nhận được điện thoại, bố tôi vội vã đi chuyên cơ từ Diên An trở lại Bắc Kinh, đến nhà mới biết rằng: Bành Chân lại gặp chuyện rắc rối.

Nguyên nhân của sự việc là do Bành Chân không tán thành bài báo của Diêu Văn Nguyên đang trên báo Văn hối ở Thượng Hải cùng một số người phê phán mang tính chính trị với Ngô Hàm. Ngô Hàm là một nhà sử học nổi tiếng, lại là phó thị trưởng thành phố Bắc Kinh, đối với Bành Chân, là bí thư thứ nhất của thị uỷ Bắc Kinh là thị trưởng thành phố, đương nhiên cần phải hỏi. tại sao khi cho in bài báo của Diêu Văn Nguyên lại không hỏi qua Bắc Kinh tý chút. Giang Thanh, Khang Sinh, Trương Xuân Kiều giấu diếm Trung ương, xuống Thượng Hải báo cáo đầy ác ý với Mao Trạch Đông rằng: “soi mói đến cả chủ tịch rồi”, làm cho Mao Trạch Đông nổi cơn thịnh nộ, phê phán Bành Chân.

Từ ngày 9 đến ngày 12.4.1966, Ban bí thư trung ương họp ròng rã mấy ngày liền. Tại cuộc họp, Khang Sinh truyền đạt ý kiến phê phán Bành Chân của Mao Trạch Đông tại Thượng Hải, bảo rằng chính Bành Chân là người chủ trì và khởi thảo cái gọi là: “Đề cương báo cáo về thảo luận học thuật hiện nay” (Đề cương tháng hai), để lộn sòng giới tuyến giai cấp, không phân biệt đúng sai, đó là một sai lầm. Bộ Tuyên truyền của Trung ương Đảng do Lục Định Nhất (uỷ viên dự khuyết Bộ chính trị trung ương Đảng сộng sản, bí thư Ban bí thư trung ương, bộ trưởng Bộ tuyên truyền trung ương) phụ trách là một “điện Diêm Vương”, đồng thời khiển trách thị uỷ Bắc Kinh và bộ Tuyên truyền bao che cho kẻ xấu (chỉ Ngô Hàm).

Khi ấy chẳng có ai ngờ ràng, cơn thịnh nộ của Mao Trạch Đông không dừng lại ở đó mà còn đi xa hơn.

Từ ngày 16 đến ngày 22.4.1966, tại Hàng Châu, đích thân Mao Trạch Đông triệu tập, chủ trì hội nghị Bộ Chính trị mở rộng để tiến hành phê phán cái gọi là tội phản động của Bành Chân.

Phê phán La Thuỵ Khanh, bố tôi đã không chấp nhận. Phê phán Bành Chân bố tôi cũng không chấp nhận như cũ. Bố tôi với La Thuỵ Khanh và Bành Chân không những có quan hệ mật thiết trong công tác, mà trong quan hệ riêng tư cũng rất thân tình. Song cuộc phê phán này lại diễn ra quá mãnh liệt, hung hãn, cơn thịnh nộ của Mao Trạch Đông đã lên tới mức không sao ngăn cản được nữa.

Trong tình trạng sinh hoạt dân chủ trong nội bộ Đảng đã trở thành cực đoan, mất bình thường lúc bấy giờ, những cán bộ cao cấp trong đảng giống như cha tôi, nếu có những ý kiến bất đồng, cũng không có khả năng đề xuất công khai.

Sau này, trong hồi ký của bố tôi, có nói:

- Vấn đề của Bành Chân vốn chẳng có gì là to lớn, tôi không phụ hoạ theo, chỉ gửi biếu Bành Chân nửa giỏ cam để tỏ bày thái độ.

Không phụ hoạ theo, biếu cam, với tình thế lúc bấy giờ, bố tôi chỉ có thể dùng cách thức ấy để biểu thị thái độ của mình. Ông nói:

- Trong điều kiện như thế, tôi thực tình khó có bề mà phản đối được.

Từ ngày 4 đến ngày 26.5.1966, hội nghị mở rộng Bộ Chính trị trung ương Đảng сộng sản Trung quốc được triệu tập họp ở Bắc Kinh. Hội nghị tiến hành theo sự bố trí của Mao Trạch Đông, đem gom Bành Chân, La Thuỵ Khanh, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn vào làm một đám, nhất loạt phê phán họ là “hoạt động phản đảng” và “giữa họ có những quan hệ cá nhân không bình thường”. Trong hội nghị, Lâm Bưu, con người này, đã đại ngôn nói về vấn đề chính biến nghe đến rợn người. Hắn tung tin giật gân rằng, có người trong nội bộ Trung ương đảng đang âm mưu làm đảo chính. Trong hội nghị này đã thông qua Thông cáo 16-5 do Trần Bá Đạt và một số người nữa khởi thảo và đã được Mao Trạch Đông sửa chữa nhiều lần.

Thông cáo 16-5 đã triệt để phê phán những tư tưởng phản động của giai cấp tư sản nằm trong giới học thuật, giới giáo dục, giới báo chí, giới văn nghệ giới xuất bản, định cướp đoạt quyền lãnh đạo trong những lĩnh vực văn hoá đó, đồng thời cũng phê phán luôn những nhân vật đại biểu của giai cấp tư sản chui vào trong đảng, trong chính phủ, trong quân đội, và trong lĩnh vực văn hoá, cần phải tẩy trừ cho hết những nhân vật này. Bản Thông cáo còn cảnh cáo với đầy tính dự rằng: những “nhân vật đại biểu của giai cấp tư sản” chui vào trong đảng, trong chính phủ, trong quân đội và trong các lĩnh vực văn hoá chính là một đám xét lại phản động, một khi thời cơ đã chín chúng sẽ chiếm đoạt chính quyền, biến nền chuyên chính của giai cấp vô sản thành nền chuyên chính của giai.cấp tư sản, đám nhân vật này, có một số đã bị chúng ta vạch mặt, một số vẫn chưa bị vạch mặt, còn một số vẫn được chúng ta tin dùng và được bồi dưỡng thành những người kế tục sự nghiệp, thí dụ như cái nhân vật Khruschev đó, bọn họ hiện nay còn đang nằm ngủ bên mình chúng ta, các cấp đảng uỷ phải hết sức chú ý tới điểm này.

Thông cáo 16-5 dùng những lời lẽ nghiêm khắc mạnh mẽ để thức tỉnh lòng người, tuyên bố, một cuộc báo động chính trị to lớn bao trùm đại địa sắp ập tới rồi

Sau khi hoàn thành cả loạt chuẩn bị chính trị và dư luận nói trên, “Cuộc Đại cách mạng văn hoá của giai cấp vô sản” chính thức vén màn, với thanh thế ào ạt, lấy việc phê phán chính trị, phê phán nổi loạn làm yếu tố cơ bản.​
 
Sửa lần cuối:
2. Tai hoạ từ trong nhà mà ra

Mao Trạch Đông không ở Bắc Kinh, Lưu Thiếu Kỳ là phó chủ tịch Ban thường vụ trung ương Đảng, Chủ tịch nhà nước, là người kế cận Mao Trạch Đông, “phụng mệnh” triệu lập và chủ trì hội nghị mở rộng Bộ Chính trị trung ương Đảng сộng sản Trung quốc.

Lưu Thiếu Kỳ không thể ngờ được rằng, tất cả những việc làm cho tới nhiều cơn giận dữ, tức tối của Mao Trạch Đông vặn vẹo, buộc tội, nhằm vào Bành Chân, La Thuỵ Khanh, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn hoàn toàn không phải là chuyện đơn giản.

Năm 1958, sau khi Đại nhảy vọt bị thất bại, đặc biệt là trong những năm 60, sau khi điều chỉnh thành công những hành động “tả” nguy hiểm, Mao Trạch Đông bắt đầu tỏ ra khó chịu đối với những người làm việc ở tuyến một của trung ương mà lại có những cách nghĩ không phù hợp với ông ta như Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Đương nhiên rằng, người thuộc loại hàng đầu như Lưu Thiếu Kỳ thì sự bực tức càng lớn. Khi đó Mao Trạch Đông cũng đã có quyết định dùng Lâm Bưu, một con người luôn luôn tìm mọi cách “tỏ rõ lòng trung thành” với ông ta, làm người kế cận trong đảng, thay cho Lưu Thiếu Kỳ, cốt để duy trì bảo vệ cái lý luận “cách mạng phải được tiếp tục trong điều kiện chuyên chính của giai cấp vô sản”, và để đề phòng, ngăn ngừa nảy sinh “Chủ nghĩa xét lại” cùng “tư bản ngóc đầu dậy” ở Trung quốc. Điều này, Lưu Thiếu Kỳ không nhận biết được gì hết, Đặng Tiểu Bình cũng không nhận biết được gì cả, các cán bộ cao cấp trong đảng cũng chẳng ai nhận biết ra.

Đối với các loại sự kiện như sấm nổ không kịp bịt tai sắp xảy ra, đối với hàng loạt cách làm, cách nghĩ vượt khỏi những quy luật thông thường của Mao Trạch Đông, ban đầu Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình cũng các quan chức cao cấp đều không nhận ra, nhưng khi đã nhận ra rồi, lại không sao mà hiểu được, sự “trì trệ” về chính trị đó đã đẩy họ vào một tình thế “không theo kịp tình hình” ngay tự lúc vừa bắt đầu, dẫn tới những “sai lầm” tất yếu, dồn đẩy họ tới mức bị đánh đổ và chìm nghỉm trong dòng chảy điên cuồng của “cách mạng”.

Ngày 25.5.1966 cũng là một ngày trước khi kết thúc hội nghị Bộ Chính trị mở rộng để phê phán Bành Chân, La Thuỵ Khanh, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn, thì bí thư đảng bộ khoa triết trường đại học Bắc Kinh là Nhiếp Nguyên Tử cùng nhóm tất cả là bảy người, lãnh ý và kế sách của Khang Sinh, dán tờ đại tự báo đầu tiên, đả kích đảng uỷ trường đại học Bắc Kinh và thành uỷ Bắc Kinh. Đó chính là bài đại tự báo “của chủ nghĩa Mác-Lê” thối tha nổi tiếng nhất của Đại cách mạng văn hoá. Bài báo này vừa dán ra, đã làm xao động trong toàn trường đại học Bắc Kinh. Chị hai tôi, Đặng Nam, khi đó đang theo học lại trường đại học Bắc Kinh, đọc xong bài báo, lập tức gọi điện thoại cho mẹ tôi hỏi về chuyện đại tự báo. Lúc đó, mẹ tôi nói:

- Nhiếp Nguyên Tử là một kẻ xấu, hồi ở Diên An đã có những thái độ không tốt. Nhưng con đừng nói với ai đấy.

Thái độ của mẹ tôi chính là đại diện cho bố tôi. Rõ ràng rằng, đối với bài “đại tự báo” xuất hiện hoàn toàn bất ngờ này, bố tôi giữ ý kiến phản đối.

Giông bão ập tới, khó có ai chống chọi lại được. Chỉ trong ngày hôm đó, đại tự báo với các loại ý kiến trong trường đại học Bắc Kinh đã lên tới dư ngàn bài. Cá thành phố Bắc Kinh rung động, lập tức như có một trận cuồng phong thổi tràn vào các trường đại học, trung học ở Bắc Kinh với đủ các kiểu, các loại tạo phản đề xuất ý kiến với ban lãnh đạo nhà trường, đại tự báo chẳng khác gì tuyết bay, rơi lả tả xuống các vườn trường Bắc Kinh. Một không khí xao động, điên cuồng như một bệnh dịch cấp tính tràn lan, trôi chảy không gì ngăn cản nổi. Tất cả các trường đại học, trung học Bắc Kinh trong nháy mắt đã rơi vào tình trạng hỗn loạn toàn diện. Hành động tạo phản không ngừng mở rộng và được nâng cấp. Một số trường học đã xuất hiện tình trạng phê phán đấu tố hiệu trưởng, thầy giáo, thậm chí cả hiện tượng đánh đập.

Ngày 28.5.1966, với sự bố trí sắp xếp của Mao Trạch Đông, Tổ Cách mạng văn hoá trung ương, tức Ban Cách mạng văn hoá trung ương, được tuyên bố thành lập, do Trần Bá Đạt làm tổ trưởng, Khang Sinh làm cố vấn, Giang Thanh, Trương Xuân Kiều v.v... làm tổ phó, Diêu Văn Nguyên và một số người khác làm tổ viên. Trước đó, Trần Bá Đạt, Khang Sinh, Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên v.v... vẫn âm thầm bàn mưu tính kế, đợi sau này sẽ lên sân khấu đóng những vai chính, trọng yếu, nay đã chính thức giáp trụ, mũ mão, tô son trát phấn lên sân khấu.

Xưa nay, Mao Trạch Động vẫn tin chắc vào một nguyên tắc cơ bản là “không phá thì không xây được”, lập luận của ông ta là “Thiên hạ đại loạn sẽ dẫn tới thiên hạ đại trị “. Khi đó, ông ta đang ở tỉnh ngoài, từ xa xôi vọng nhìn về sự tiến triển tình thế đại phá, đại loạn ở Bắc Kinh lần này, rất lấy làm đắc ý.

Trong khi đó ở Bắc Kinh, những người chủ trì công việc như Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình phải đối diện với sự hỗn loạn nghiêm trọng như bất ngờ rơi từ trên trời xuống, đẩy họ vào một tình thế cực kỳ khó khăn.

Ngày 29.5.1966, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, ba vị thường vụ của Bộ Chính trị, phụ trách công việc hàng ngày của Trung ương, triệu tập các bộ môn có liên quan với Trung ương đến họp nghiên cứu các vấn đề của cuộc vận động, quyết định thành lập tổ công tác, đến báo Nhân dân, do Trần Bá Đạt lãnh đạo, tổ công tác đến trường đại học Bắc Kinh, do Trương Thừa Tiên, thứ trưởng Bộ Giáo dục lãnh đạo. Chu Ân Lai báo cáo những quyết định đó bằng điện thoại với Mao Trạch Đông khi đó đang ở Hàng Châu và đã được đồng ý ngay. Ngày 30.5.1966, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, ba người liên danh gửi điện báo tới Mao Trạch Đông xin chỉ thị, ngay trong đêm đó. Mao Trạch Đông trả lời: “Đồng ý làm như thế”.

Trong khi cán bộ lãnh đạo ở tuyến một Trung ương đang bận rộn bàn bạc bố trí cán bộ lãnh đạo phong trào, tình hình bỗng có đột biến. Ngày 1.6.1966, Mao Trạch Đông lại đưa ra lời phê chuẩn, ủng hộ bài đại tự báo của Nhiếp Nguyên Tử, chỉ thị cho Thông tấn xã phát hành toàn văn, in trên báo chí toàn quốc, và nói: Bắc Kinh đại học, các dinh luỹ phản động này, từ nay bắt đầu bị phá tan.

Ngày 1.6.1966, báo Nhân dân (Nhân dân nhật báo) cho in bài xã luận với tựa đề: “Quét sạch bằng hết lũ đầu trâu mặt ngựa” (nguyên văn: lũ trâu quỷ, rắn thần - N.D), kêu gọi dân chúng vùng lên “quét cho sạch lũ đầu trâu, mặt ngựa, đang chiếm giữ trận địa tư tưởng văn hoá”. Đánh cho tơi bời khói lửa những tên được gọi là “chuyên gia”, “học giả”, cầm quyền”, “ông tổ sư” của giai cấp tư sản, khiến cho uy phong của bọn chúng quay lơ trên mặt đất. Bài xã luận ấy, do Trần Bá Đạt thức thâu đêm viết ra, trước khi cho in không hề báo cáo với Trung ương. Ngay tối hôm đó, đài phát thanh Nhân dân trung ương cho đọc những bài đại tự báo của nhóm bảy người Nhiếp Nguyên Tử.

Chỉ trong vòng một ngày mà gió mưa đột biến, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình hoàn toàn không có được một chút chuẩn bị tư tưởng nào, nên vô cùng kinh ngạc. Mấy ngày liền tiếp sau đó, báo Nhân dân liên tục đăng những bài xã luận, những bài báo, những tin tức mang tính xúi giục, kích động, tình thế xấu đi mau chóng, phong trào tràn ra toàn quốc như nước vỡ bờ.

Ngày 3.6.1966, Lưu Thiếu Kỳ khẩn cấp triệu tập những người phụ trách cấp uỷ có liên quan, tham gia Hội nghị thường vụ Bộ Chính trị mở rộng, thảo luận xem nên ứng phó với tình thế như thế nào. Với sự nhận thức nhất trí của đại bộ phận người tham gia hội nghị đã quy định ra tám điều: trong ngoài có khác nhau, chú ý giữ gìn bí mật, đại tự báo không tràn ra đường phố, không tổ chức diễu hành thị uy, không liên kết xâu chuỗi, không tổ chức những hội nghị vạch tội đại quy mô, không nên bao vây nhà ở của “băng đen”, không được phép đánh người, xỉ nhục người v.v... Quyết định: gửi đi những tổ công tác để ngăn chặn tình hình các trường đại học, các học viện lớn ở thủ đô đang rơi vào tình trạng cận kề với sự tê liệt. Đồng thời còn quy định, ở đâu xảy ra chuyện gì phải phái người tới đó tổ công tác được cử đi phải nhanh chóng, mau lẹ, y như đội phòng cháy chữa cháy đi cứu hoả. Trong hội nghị này, Đặng Tiểu Bình có nói: Truyền đạt tám điều đó của Trung ương cần phải hết sức nhanh chóng, mở những hội nghị có mười vạn người tham gia, một lần cắm cọc, cọc phải tới đáy.

Sau hội nghị, thành uỷ Bắc Kinh căn cứ vào tinh thần của hội nghị, đã đưa các tổ công tác xuống các trường đại học, trung học. Vì phong trào tạo phản đã có những người đứng đằng sau che chở, ủng hộ, nên khi tổ công tác tới trường, không những không ngăn được sự hỗn loạn phát triển, mà mọi việc vì thế càng ngày càng trở nên khó khăn hơn, khó có thể chế ngự được. Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình v.v... bù đầu lên vì hội họp, nghiên cứu và xử lý hàng loạt những vấn đề nảy sinh trong phong trào ấy.

Mao Trạch Đông không có mặt ở Bắc Kinh, rất nhiều những chính sách lớn không được quyết định, nên ngày 9.9.1966, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình đi Hàng Châu để hội báo tình hình. Từ ngày 10 đến ngày 12.9.1966, Mao Trạch Đông triệu tập, chủ trì hai cuộc họp, thảo luận vấn đề Đại cách mạng văn hoá. Trong cuộc họp đã bàn bạc, thảo luận tới hàng loạt, hàng loạt các mặt mà nội dung của nó có liên quan tới Cách mạng văn hoá. Trong cuộc họp có bàn tới khả năng tiến hành phong trào này phải tới nửa năm, nhưng lại không đề xuất được ý kiến cụ thể để điều hành phong trào ngay trước mắt. Đối với vấn đề cử những tổ công tác tới những nơi xảy ra sự việc, Mao Trạch Đông chỉ bày tỏ trong sự bàn bạc của mình rằng: cử những tổ công tác đi quá nhanh cũng không tốt, bởi chưa được chuẩn bị gì, chi bằng cứ để cho nó hỗn loạn một dạo, hỗn chiến một trận, tình hình rõ ràng ra rồi mới cử người đi.

Sau khi từ Hàng Châu về Bắc Kinh, do Chu Ân Lai phải đi thăm nước ngoài, nên trách nhiệm chỉ đạo thuộc về Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Bắt đầu từ ngày 4.6.1966, thành uỷ Bắc Kinh theo kinh nghiệm của tổ công tác cử tới trường đại học Bắc Kinh, đã cử tiếp những tổ công tác tới một số trường đại học, học viện lớn và trường trung học.

Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình có ý định thông qua việc cử các tổ công tác này vào trường học đề giữ vững lấy quyền lãnh đạo phong trào, đồng thời ngăn chặn mọi sự hỗn loạn, lập lại trật tự, họ quan tâm và hỗ trợ các tổ công tác này, còn chia nhau trực tiếp đi gặp nhân viên các tổ công tác để nắm tình hình và chỉ đạo công tác.​
 
2. Tai hoạ từ trong nhà mà ra (tiếp)

Ngày 4.6.1966, Đặng Tiểu Bình gặp gỡ tổ công tác đóng tại trường trung học nữ, trực thuộc đại học Bắc Kinh. Trong khi trò chuyện đã nhắm đúng vào vấn đề mà học sinh phê phán: “Này quyền học thuật tư sản” của thầy giáo, Đặng Tiểu Bình nói:

- Nếu như (thày giáo) có học vấn, có kiến thức thật, thì phải đoàn kết với họ, môn toán, môn vật lý của trường nữ trung học này đều rất khá. Một trường học tốt, có khí thế ngất trời, tiếng tăm lừng lẫy, càng hay. Nếu như không có thầy giáo giỏi, làm sao đào tạo ra học sinh giỏi được. Cần phải phân tích cho thoả đáng. Tổ công tác cần phải giáo dục, giúp đỡ học sinh để nâng cao trình độ. Có đánh người chưa? Đánh người là không có bản lĩnh, là vô lý. Đấu tranh cần phải nói lý, nói lẽ, phê phán cần phải có sự chuẩn bị chu đáo, sự thật phải đối chiếu cho rõ ràng. Có một số người là “băng đen” thật, có một số người không phải là băng đen. Nói sai đi rằng tất cả mọi người đều xấu, vậy lấy ai là người tốt? Tài liệu chứng cứ không đầy đủ, chớ vội vã khinh xuất mở đại hội đấu tranh, không nên dùng nhục hình biến lưỡng, nịnh hót cũng chẳng hay gì. Nếu làm nhiều điều sai trái, sau này có đi tạ tội cũng tạ tội không hết. Vấn đề chính trị cần phải dùng biện pháp chính trị để giải quyết. Trong đảng bộ cũng có cái tốt của nó chứ, hiệu trưởng, hiệu phó bao giờ cũng có những người tốt chứ. Đem kéo đổ đảng đi, sao được? Đem kéo đổ đoàn đi sao được? Nếu phong trào này làm đảng sụp đổ, làm đoàn thanh niên sụp đổ mà là thắng lợi sao? Bao giờ chẳng là chuyên chính vô sản do đảng lãnh đạo chứ. Các giáo sư, đại đa số là tốt. Nói tất cả các giáo sư đều hỏng tuốt, tôi không tán thành.

Tôi sao chép tỷ mỷ đoạn nói này, là muốn chứng minh hai điều. Thứ nhất: có thể nhận ra rằng, Đặng Tiểu Bình, về tư tưởng và về nguyên tắc, đều không đồng tình, chấp nhận lý luận của “tạo phản”. Thứ hai, có thể nhận ra rằng, đến lúc này đối với ý đồ phát động phong trào chính trị này của Mao Trạch Đông, ông vẫn hoàn toàn chưa ý thức được, và càng không thể nói ông đã theo sát gót được về tư tưởng và về hành động. Là một người lãnh đạo ở tuyến một trung ương, ông cũng giống như Lưu Thiếu Kỳ, với phong trào mà nói, ông đã lạc đội, đã theo không kịp, đã thoát khỏi những bước đi của Mao Trạch Đông rất xa một cách hoàn toàn không tự giác.

Ngày 14.6.1966, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình triệu tập hội nghị Thường vụ Bộ Chính trị trung ương Đảng mở rộng để truyền đạt tinh thần của hội nghị Hàng Châu. Từ đó về sau, hai ông đã nhiều lần nghe báo cáo và nghiên cứu về những vấn đề mới xuất hiện trong phong trào. Ngày 21.6.1966, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình lại thêm một lần nữa triệu tập Hội nghị Thường vụ Bộ Chính trị mở rộng để nghiên cứu vấn đề này. Trong hội nghị, Đặng Tiểu Bình đã đưa ra một số ý kiến về vấn đề phương pháp của tô công tác và một số vấn đề khác. Tinh thần hội nghị được đem thi hành, tình hình hỗn loạn trong các trường học và ngoài xã hội đã có những chuyển biến tốt, những hiện tượng vô chính phủ cũng đã được ngăn chặn. Ngày 28.6, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình triệu tập Hội nghị Thường vụ Bộ Chính trị mở rộng, đưa ra ý kiến: phong trào cần tiến hành theo từng bước thứ tự, là cần phải đặt ra những chính sách cụ thể cho dễ hành động.

Trong tình trạng không hề được chuẩn bị về tư tưởng, mà phong trào lại ào ạt, ập đến một cách bất ngờ, hành động của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình là những quyết định đúng, cần phải làm, đồng thời đó cũng là quyết định chính xác. Họ cũng giống như tuyệt đại đa số cán bộ khác, đều mong khôi phục lại được không khí thường nhật vẫn có, mong học sinh trở lại trường học lập, mong thủ đô có lại được sự yên bình.

Họ không nghĩ tới rằng, cách thức, hành động của họ, về căn bản mà nói, đã lội ngược dòng với tính toán của Mao. Trạch Đông. Hơn thế nữa, cả một đám người của Ban Cách mạng văn hoá trung ương, trong nơi tăm tối, đang dồn hết sức mạnh, với tinh thần đầy hung hăng, đầu têu, xúi giục những hành động tạo phản của học sinh. Đối với bè lũ Giang Thanh mà nói, chỉ trong tình trạng hỗn loạn, mới là cái sân khấu tốt nhất, để họ múa may, tỏ vẻ.

Cuộc Cách mạng văn hoá này, về cơ bản mà nói, nó từ trên dội xuống, do con người bịa ra là điều khiển, thêm vào đó Lâm Bưu, Giang Thanh và một số người Cách mạng văn hoá khác, lợi dụng nhiệt tình cách mạng cùng sự ngây thơ, ấu trĩ của thanh niên học sinh, xúi giục, kích động và đầu độc họ. Cho nên những tổ công tác cử đi, sau khi vào được nhà trường rồi, cũng không những không xoay chuyển được tình hình hỗn loạn, mà ngay từ đâu đã vấp phải sự phản đối mãnh liệt, thậm chí là xua đuổi của một bộ phận quần chúng cách mạng”.

Do có những sự bất đồng về việc đưa tổ công tác vào trường học, nên tổ chức quần chúng trong các học viện, các trường đại học đã nhanh chóng chia thành hai tác trận lớn, cơ bàn là “Phái bảo thủ” và phái tạo phản”. Sở dĩ cục diện đó hình thành được, là do trên thực tế đã hình thành hai phái đối lập nhau mà một bên là những người phụ trách trung ương ở tuyến một do Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình làm dại diện, còn một bên là phái Cách mạng văn hoá do Lâm Bưu, Giang Thanh v.v... làm đại diện.

Tháng bảy, do sự việc đã trở thành quá khẩn cấp, Trung ương có ba cuộc họp tiến vào những ngày 13, 19, 22 để bàn về vấn đề tổ công tác. Trần Bá Đạt là đại diện của Ban Cách mạng văn hoá trung ương, nói rằng, tổ công tác đàn áp dân chủ, dội nước lạnh vào quần chúng, nên yêu cầu rút hết các tổ công tác về. Lưu Thiếu Kỳ giận dữ bác lại, và đã xảy ra cuộc tranh luận với Khang Sinh. Một người vốn nổi tiếng là trầm tĩnh như Đặng Tiểu Bình cũng không “trầm tĩnh” nổi nữa, đột ngột đứng dậy, chỉ thẳng vào Trần Bá Đạt nói, các ông bảo chúng tôi sợ quần chúng, các ông hãy thử đến tại trận xem sao! Ông dứt khoát tỏ rõ thái độ: “Rút tổ công tác về, tôi không tán thành!”. Trong hội nghị, cán bộ lãnh đạo trung ương ở tuyến một, và cán bộ Cách mạng văn hoá trung ương hai bên từ tư tưởng đến ngôn từ đã lên đến đỉnh của đối chọi, cuộc đấu tranh đã nóng dần lên.

Sự hỗn loạn cứ như thế kéo dài tới hơn một tháng. Trong một số trường học đã xuất hiện tổ chức Hồng vệ binh, những hành động phê phán lãnh đạo nhà trường, đấu tố “băng đen” và lũ “đầu trâu mặt ngựa”, không ngừng được nâng cấp, và đã xảy ra việc hành hạ thể xác, đánh đập. Cuộc đấu tranh phản đối tổ công tác và bảo vệ tổ công tác càng ngày càng kịch liệt hơn, những tổ chức mang tính chất và bè phái khác nhau do đó mà được đẻ thêm ra. Các trường đại học và trung học nói chung đều đã nghỉ học, những đại hội tranh luận lớn cũng như nhỏ được tiến hành suốt ngày đêm. Người ngựa của Ban Cách mạng văn hoá trung ương tới tấp, rầm rộ tới các trường để thổi gió, châm ngòi, cổ vũ tạo phản. Cán bộ lãnh đạo trung ương như Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình v.v... bắt buộc phải tới các trường học để đối thoại và thuyết phục học sinh. Tôi nhớ, có một lần, bố tôi tới một trường đại học để tham gia tranh luận, giải đáp những câu chất vấn của học sinh. Có mặt tại đó, còn có các cán bộ lãnh đạo trung ương khác, cùng Giang Thanh và các thành viên Tổ Cách mạng văn hoá trung ương. Trên sân vận động chật ních người, khẩu hiệu hô vang trời đất, khí thế hừng hực, sôi sục Dưới ánh đèn sáng choang, chói mắt, có tiếng the thé của Giang Thanh gào thét: “Học tập tiểu tướng Hồng vệ binh”, “Xin gửi tới Hồng vệ binh lời chào kính trọng”. Cái thứ tiếng Phúc Kiến của Trần Bá Đạt chẳng ai nghe hiểu được, phải có Vương Lực (tổ viên Tổ Cách mạng văn hoá trung ương) đứng bên làm phiên dịch, xem ra đầy vẻ ác ý, ngông cuồng, không thể chung sống. Còn Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình cùng các cán bộ lãnh đạo ở tuyến một trung ương, lại ra sức giải thích, khuyên can, và tỏ ra bó tay, bất lực. Những vị cách mạng tiền bối đã cống hiến cả đời mình cho cuộc cách mạng nhân dân, phải đối diện với đám quần chúng “tạo phản cách mạng” biến dạng, méo mó ấy, thật quả là mù mịt không sao hiểu được.

Mao Trạch Đông là người phát động cuộc Đại cách mạng văn hoá ấy, lại là người khuyến khích, duy trì phong trào tạo phản. Khi “thiên hạ đại loạn” ở Bắc Kinh, thì ở Hàng Châu, bên bờ hồ Tây Tử, ánh nước long lanh, Mao Trạch Đông đã đưa ra quan điểm dứt khoát không đồng ý với những người lãnh đạo tuyến một ở Bắc Kinh. Ngày 21.6.1966, Mao nói: Cách mạng văn hoá là một cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh giai cấp. Bây giờ không cử các tổ công tác tới các trường học, cứ để cho nó đại loạn lên đã.

Ngày 8.7.1966, Mao viết thư cho Giang Thanh nói, thiên hạ đại loạn sẽ dẫn tới thiên đại trị. Cứ bảy tám năm lại làm lại một lần. Nhiệm vụ hiện nay là phái đánh đổ hết phái hữu trong toàn đảng trên toàn quốc.

Kể từ khi phong trào nổ ra tới đó, Mao Trạch Đông lại thêm một lần phát khẩu lệnh “chiến đấu”.

Ngày 18.7.1966, sau khi Mao Trạch Đông sảng khoái rong chơi, bơi lội trên sông Trường Giang ở Vũ Hán, mới trở lại Bắc Kinh. Ông ta mượn cớ cần nghỉ ngơi từ chối không tiếp Lưu Thiếu Kỳ tới thăm viếng, nhưng ngay trong ngày hôm đó, ông ta đã nghe báo cáo của Ban Cách mạng văn hoá trung ương.

Bắt đầu từ ngày hôm sau cho đến ngày 23.7.1966, Lưu Thiếu Kỳ căn cứ vào ý kiến của Mao Trạch Đông đứng ra triệu tập và chủ trì “Hội nghị báo cáo về Đại cách mạng văn hoá”. Sự chia rẽ trong hội nghị vẫn rất lớn, Ban Cách mạng văn hoá trung ương kịch liệt công kích tổ công tác của lãnh đạo tuyến một trung ương là đàn áp quần chúng. Trong hội nghị này, Mao Trạch Đông có phát biểu ý kiến của mình. Ông ta nói, trở về tới Bắc Kinh, ông ta cảm thấy rất đau lòng, lạnh lẽo, tẻ nhạt, thậm chí lại thấy có người đàn áp phong trào học sinh. Đây là sai lầm phương hướng, cần phải quay trở lại ngay. Ngày 24.7.1966, Mao Trạch Đông triệu tập Ban thường vụ trung ương và các thành viên trong Tổ Cách mạng văn hoá trung ương, để phê phán Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, họ bảo tổ công tác chỉ có tác dụng xấu, làm trở ngại cho phong trào, chính thức chỉ thị phải ngay lập tức rút các tổ công tác về.​
 
2. Tai hoạ từ trong nhà mà ra (tiếp)

Mao Trạch Đông đã xác định tính chất của tổ công tác, những người đã cử tổ công tác đi như Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, trên một số vấn đề, rõ mười mươi rằng đã “phạm sai lầm”.

Ngày 29.7.1966, thành uỷ Bắc Kinh mở đại hội với một vạn người ở hội trường Nhân dân, tuyên bố huỷ bỏ tổ công tác.

Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình nói chuyện, nhưng mang tính kiểm thảo tại hội trường. Đặng Tiểu Bình nói:

- Cần phải nói cho rõ ràng rằng, lấy danh nghĩa là thành uỷ mới, cử các tổ công tác tới các trường đại học, trung học, đó là việc làm có căn cứ vào ý kiến của trung ương... Có đồng chí nói: các đồng chí lão thành cách mạng vấp phải vấn đề mới, rõ ràng là như vậy.

Chu Ân Lai nói:

- Các đồng chí trong tổ công tác, tuyệt đại đa số là người tốt, lão thành cách mạng vấp phải vấn đề mới mà!

Lưu Thiếu Kỳ nói:

- Còn như phải tiến hành Đại cách mạng văn hoá của giai cấp vô sản như thế nào, các đồng chí không hiểu lắm, không rõ lắm, các đồng chí hỏi tôi, tôi thành thật trả lời các đồng chí rằng, tôi cũng chẳng hiểu ra sao. Tôi nghĩ rằng, rất nhiều đông chí khác ở trung ương rồi các thành viên trong tổ công tác, cũng chẳng hiểu được.

Những lời nói của Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình là kiểm điểm, là chịu trách nhiệm và cũng là những lời tâm huyết.

Là đại biểu của Hồng vệ binh nhà trường, tôi cũng tham gia lần đại hội đó. Cho đến hôm nay, tôi vẫn còn ghi nhớ rất rõ ràng rằng, nhìn lên Chủ tịch đài rộng lớn, cả vạn người trong hội trường đều im như thóc. Chúng tôi thuộc phái “bảo vệ tổ công tác”, vừa nghe mà vừa rơi nước mắt, từ trong sâu thẳm trái tim, chúng tôi cảm nhận được sự chống đối và bất lực của các bậc tiền bối. Tôi cũng còn nhớ rất rõ ràng, khi đại hội kết thúc, Mao Trạch Đông bất ngờ xuất hiện trên lễ đài hội trường, với phong thái của người khổng lồ không ai sánh kịp, hướng về những người tham gia hội nghị vẫy vẫy tay gửi gắm lời thăm hỏi ân cần. Hội trường lập tức sôi động hẳn lên, những tiểu tướng Hồng vệ binh vì niềm vui bất chợt, nên xúc động hoan hô, ai nấy nước mắt ròng ròng. Muốn được nhìn rõ Mao Chủ tịch, những người phía sau quên hết mọi sự, họ đứng lên ghế, lên bàn gào đến khản cổ: “Mao Chủ tịch muôn năm!”. Hội nghị từ chỗ trầm buồn, dồn nén đến cao độ lúc ban đầu, chỉ trong chốc lát đã biến thành biển lớn trào dâng.

Sau đại hội đó, phong trào Đại cách mạng văn hoá, đã được Mao Trạch Đông phát động, từ đó đã phá bỏ được mọi trở ngại, danh chính ngôn thuận tiến vào giai đoạn mới - “tạo phản có lý”.​
 
3. Nã pháo vào Bộ tư lệnh

Từ ngày 1 đến ngày 12.8.1966, Đảng Сộng sản Trung quốc họp phiên toàn thể lần thứ 11 khóa VIII. Ở Hội nghị thường vụ Bộ Chính trị mở rộng, họp trong những ngày đầu của Hội nghị toàn thể, Mao Trạch Đông chỉ trích nặng nề hơn đối với việc cứ các tổ công tác, ông ta nói “là đàn áp, là khủng bố, cuộc khủng bố này là từ trung ương mà ra”, và mập mờ nói thêm: “bọn đầu trâu mặt ngựa hiện đang ngồi ở đây”. Mao Trạch Đông còn dùng phương thức điển hình của Cách mạng văn hoá viết ra bài báo trứ danh: Bài đại tự báo của tôi - Nã pháo vào Bộ tư lệnh, trong đó chỉ trích một số đồng chí cán bộ lãnh đạo từ trung ương tới các địa phương đã đứng trên lập trường giai cấp tư sản phản động, thực hiện chuyên chính của giai cấp tư sản. Bài đại tự báo đó tuy không đích xác chỉ vào ai, nhưng mũi giáo chỉ vào đâu thì đã hai năm rõ mười.

Từ đó, đại hội bắt đấu vạch vòi và phê phán những “sai lầm” của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Các ông kễnh cách mạng văn hóa từ “các lộ” bắt đầu bằng việc cử các tổ công tác đàn áp phong trào học sinh, rồi mới ngược các loại “sai lầm”, từng điểm một, từ năm 1962 tới lúc đó của cán bộ lãnh đạo tuyến một trung ương, buộc tội Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình.

Bài nói chuyện trong hội nghị của Mao Trạch Đông cũng chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình đàn áp phong trào học sinh là vấn đề phương hướng, là vấn đề đường lối, là đường lối sai lầm. Hội nghị phê phán đó đã đi đến được một kết luận, ngoài Trung ương đảng do Mao Trạch Đông dẫn đầu, còn có thêm một Bộ tư lệnh của giai cấp tư sản do Lưu Thiếu Kỳ làm đầu đảng.

Cuối cùng, theo đề nghị của Mao Trạch Đông, đại hội tăng thêm một nghị trình, xét tuyển lại Bộ Chính trị trung ương Đảng và Ban thường vụ Bộ Chính trị. Lưu Thiếu Kỳ đang đứng ở hàng thứ hai, nay tụt xuống hàng thứ tám. Còn Lâm Bưu thì lên lách leo lên, được xếp vào hàng thứ hai, trở thành phó chủ tịch duy nhất của Trung ương Đảng, được cất nhắc, thay thế cho Lưu Thiếu Kỳ, ở vào địa vị người kế cận.

Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình vốn là những người chủ trì công tác ở tuyến một trung ương, kể từ sau hội nghị này, trên thực tế là đã rút khỏi công tác lãnh đạo ở trung ương rồi. Đồng thời với việc tiếp thu phê phán ở hội nghị, bố tôi có lúc vẫn phải đi tham gia phong trào, tham gia các cuộc mít tinh của quần chúng, và giải đáp các vấn đề ở một số trường học. Đối với Cách mạng văn hoá, bố tôi đã từng nói: “Lão thành cách mạng gặp vấn đề mới” để biểu thị sự không hiểu nổi của mình. Sau khi bị phê phán, sự không hiểu nổi lại càng sâu đậm hơn. Ông là người trầm lặng, ít nói, nhưng đối với phong trào này, đặc biệt là đối với sự điên cuồng của lũ người trong Ban Cách mạng văn hoá trung ương và sự ngu muội của lũ tạo phản thì nỗi căm ghét càng chất chứa trong lòng. Có khi, đứng trước quần chúng, ông đã mặc xác cái nghịch cảnh của mình, chứng minh sự chính nghĩa của mình và của cả người khác.

Ngày 2.8.1966, ông được thông báo phải đến tham gia tại hội công nhân viên chức của thầy trò trường Đại học nhân dân, có học sinh gửi tới ông một mẩu giấy, hỏi về sự kiện “binh biến tháng hai”. Ông biết rõ rằng đây là một âm mưu có người xúc xiểm, vu cáo, buộc tội thêm nguyên soái Hạ Long, biết rõ ràng ở hội trường có Trần Bá Đạt v.v... và cả những ông kễnh của Ban Cách mạng văn hoá trung ương, nhưng ông vẫn thẳng thắn trả lời:

- Đã kiểm tra đầy đủ, không hề có chuyện này.

Và nói thêm:

- Xin nói để các bạn biết, quân đội của ta, Bành Chân không điều động nổi, tôi cũng không điều động được!

Chỉ từ mấy câu giải đáp trên đây, đã có thể hoàn toàn hiểu được sự bực bội, tức tối trong lòng ông ra sao. Ông muốn giải đáp bênh vực những đồng chí cũ, những chiến hữu cũ, nhưng ông, trong lúc đó, đã là người thấp cổ bé họng, có miệng mà chẳng cất được lên lời.

Sau khi đã kết thúc hội nghị toàn thể lần thứ 11, Mao Trạch Đông quyết định, Lâm Bưu đứng ra triệu tập một cuộc họp Ban thường vụ Bộ Chính trị mở rộng. Hội nghị vốn định là tiếp tục phê phán Lưu Thiếu Kỳ, nhưng Lâm Bưu, Giang Thanh và một số người khác lại nhận định rằng: về thực tế, Lưu Thiếu Kỳ đã bị đánh đồ rồi. Trước mắt, Đặng Tiểu Bình mới là mối nguy cơ chủ yếu, và là sự trở ngại lớn nhất, bởi thế mà mũi dùi phê phán của hội nghị bèn quay về phía Đặng Tiểu Bình. Bọn họ không những tổ chức chặt chẽ người phê phán Đặng Tiểu Bình, mà Lâm Bưu còn đích thân xuất tướng, biến vấn đề Đặng Tiểu Bình thành mâu thuẫn địch ta.

Ở hội nghị, bố tôi còn bị phê phán không chính đáng, thậm chí còn bị vu cáo. Tâm lý nhất định là mất bình tĩnh rồi. Về nhà tuy ông chẳng nói năng gì, nhưng trằn trọc không ngủ được. Mẹ tôi thấy ánh đèn trong phòng ngủ của ông suốt đêm không tắt, liền đi vào nói:

- Ba giờ hơn rồi đấy, làm sao ông vẫn chưa ngủ?

Bố tôi nói với mẹ:

- Trong cuộc họp tối hôm nay, việc phê phán Lưu Thiếu Kỳ đã chuyển hướng sang tôi rồi.

Mẹ tôi hỏi:

- Ai phê phán ông?

Bố tôi chỉ nói một câu:

- Anh Bộ đội.

Bố tôi không nói thêm một câu nào nữa, mẹ tôi cũng không dám hỏi nhiều hơn, chỉ an ủi ông:

- Ông ngủ đi thôi, nếu không, sáng mai lại không dậy đi họp được.

Bố tôi biết rằng, sau lần phê phán này, những “cái sai” của ông, không còn dừng ở chuyện cử tổ công tác đi “đàn áp” quân chúng nữa, mà tất cả các món nợ cũ. nợ mới trong lịch sử đều được đem ra thanh toán hết.

Sau hội nghị, bố tôi bị bức phải nghỉ việc. Ông phải bàn giao lại số công việc vốn do ông phụ trách ở các ban thuộc Văn phòng trung ương Đảng cho Khang Sinh. Ông nói:

- Công việc của tôi giao cho ông, tôi không thể tiếp tục làm việc được nữa.

Bố tôi là một người xưa nay vốn trầm lặng, ít nói. Khi phong trào bùng nổ, bố tôi quá bận bịu với những công việc đột ngột nảy sinh, sau này lại bị đình chỉ công tác vì mắc sai lầm, nên lại càng ít nói hơn. Khi đó, mọi việc hoạt động, tham gia họp hành cũng càng ngày càng thưa thớt, ngay ở nhà cũng chỉ ngồi đọc những văn kiện được gửi tới.

Công việc ở trung ương không phải làm nữa, nhưng đối với bọn trẻ con trong nhà ông quản rất chặt. Những đứa trẻ nhỏ chúng tôi, ai nấy đều tham gia phong trào ở các trường đại học, trung học, thường rất ít khi về nhà. Sau khi các tổ công tác bị phê phán, tuy chúng tôi biết về vấn đề này, bố tôi đã mắc sai lầm, nhưng còn cái cảnh trớ trêu mà bố tôi phải đối phó trước mặt, chúng tôi lại chẳng hiểu được, nên ai nấy vẫn cứ bận rộn với phong trào.

Đầu tháng tám, khi đôi câu đối (và bức hoành) của Hồng vệ binh của một số trường trung học được dán ra: “Bố anh hùng, con hảo hán”, “Cha phản động, con thối thây”, “cơ bản như thế” lập tức đã làm trỗi dậy một cuộc tranh luận lớn về “huyết thống”. Tổ chức Hồng vệ binh ở nơi tôi giữ vững lập trường của đôi câu đối này, nhưng tổ chức Hồng vệ binh của chị cả Đằng Lâm tôi ở Học viện mỹ thuật trung ương lại giữ thái độ phản đối. Tôi vẫn nhớ rằng, khi ấy để tranh luận với nhau về đôi câu đối này, các tổ chức luôn bận bịu suốt ngày đêm, chạy đây chạy đó, tới các hội trường tranh luận, cãi nhau. Vừa cãi lộn ầm ĩ, tranh luận với nhau xong ở học viện âm nhạc, là đội ngũ lại rầm rập kéo nhau tới Học viện mỹ thuật. Chính vì quan điểm bất đồng nên tôi và chị tôi, hai người cứ hồ như đối lập với nhau. Hôm đó đêm đã khuya lắm, tôi dùng điện thoại công cộng bên ngoài hội trường, nơi đang tranh luận ỏm tỏi gỏi về cho mẹ tôi để tranh thủ ý kiến của bà. Tôi nhớ, mẹ tôi cuống quýt nói với tôi:

- Đôi câu đối ấy sai đấy, con đừng có tranh cãi với chị con làm gì con về nhà ngay đi!

Tiếng nói nặng nhọc của mẹ tôi nhắc lại lần nữa:

- Cha con nói thế đấy!

Khi ấy, tôi thật chẳng thích thú gì khi phải tuân theo sự quyết định của cha mẹ, sau này, khi đã hiểu ra được, tôi mới thấy thật may vì tôi đã nghe lời cha mẹ.

Ngày 18.8.1966, ở đại hội Chúc mừng Đại cách mạng văn hoá, Lâm Bưu đã hô hào Hồng vệ binh:

- Đập cho tan nát tư tưởng cũ, văn hoá cũ, phong tục cũ, lập quán cũ của giai cấp bóc lột!

Bắt đầu từ ngày 20.8.1966, Bắc Kinh là nơi đầu tiên được phát động phong trào Đập phá bốn cái cũ của Hồng vệ binh với quy mô vô tiền khoáng hậu, rồi nhanh chóng lan ra bao phủ toàn quốc. Các tiểu tướng Hồng vệ binh vượt cổng trường học, lao vào “đâm chém xã hội”. Chỉ trong chốc lát, cả xã hội đã bao trùm bơi một cuộc “khủng bố đỏ”. Phong trào “cách mạng” huỷ hoại xã hội sâu đậm này do đích thân thống soái Lâm Bưu kêu gọi phát động, với sự xúi bẩy, thúc giục trực tiếp của Ban Cách mạng văn hoá trung ương, càng diễn càng mạnh, phát triển tới những cuộc lục soát lớn, đấu tố lớn, phá hoại lớn, thậm chí đánh chết người. Không biết bao nhiêu tiểu tướng Hồng vệ binh trẻ con, ấu trĩ, vì “bảo vệ đường lối cách mạng của Mao chủ tịch”, đã cuồng nhiệt, mù quáng bị cuốn hút vào hành động cách mạng điên rồ này. Cha mẹ tôi, lúc này cũng cảm thấy mọi sự hỏng to rồi, đã gọi tôi và em trai tôi từ trường trung học về nhà giữ rịt, không cho thò chân ra ngoài, và nói rõ cho chúng tôi biết, cấm hẳn không được phép tham gia bất cứ một hành động khám nhà, đấu tố nào. Khi ấy mấy anh chị em tôi cũng đã cảm thấy tình thế bất lợi của bố tôi, nên đều nghe lời, đóng cửa ở nhà. có người ngồi học đan len, có người láp ráp máy thu thanh, cũng có người suốt ngày chỉ ngồi sao chép những ngữ lục của Mao Chủ tịch.

Sự yên tĩnh trong nhà khiến chúng tôi hoàn toàn cách ly với những động loạn bên ngoài. Cho đến tận bây giờ nhớ lại những ngày đó, chúng tôi thấy vô cùng biết ơn cha mẹ đã nghiêm khắc trông giữ chúng tôi trong cái giờ phút gay go ghê gớm ấy.

Cách mạng văn hoá, một phong trào quần chúng với quy mô chưa từng có đã làm cho toàn thể xã hội bị đảo lộn đến mức trời long đất lở, sau khi đã cách cổ được sự trở ngại của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, phong trào càng được tăng cường sức mạnh, ào ào phát triển lao đầu về phía trước.

Ngày 18.8.1966, Mao Trạch Đông mặc quân phục, tay đeo băng đỏ Hồng vệ binh, tiếp kiến hàng triệu Hồng vệ binh tại quảng trường Thiên An Môn. Cho đến cuối tháng 11.1966, Mao Trạch Đông, trước sau tất cả tám lần tiếp kiến hơn 11 triệu Hồng vệ binh. Với sự chỉ đạo của đích thân Mao Trạch Đông, phong trào Hồng vệ binh vẫn cuồng điên phát triển như lửa cháy đùng đùng.

Dư âm điên cuồng của phong trào “phá bốn cái cũ” chưa tắt, lại bắt đầu phong trào Đại cách mạng xâu chuỗi trên phạm vi cả nước. Với sự kêu gọi của Mao Trạch Đông, những tiểu tướng Hồng vệ binh mặc quần áo bộ đội cũ, rất được ưa chuộng lúc bấy giờ, đi xe lửa, đi ô-tô không phải mua vé, bắt đầu làm một cuộc xâu chuỗi lớn với hàng chục triệu người trên phạm vi toàn quốc. Cuồng phong bão tố của phong trào ập tới không sót một ngõ ngách nào của xã hội, ngọn lửa bạo liệt của tạo phản bùng bùng bốc cháy khắ đại địa Thần Châu.

Phong trào tạo phản từ trường học đã tràn ra khắp xã hội, làm cho trật tự xã hội bị phá hoại nghiêm trọng, mạnh mẽ đánh vào nông nghiệp cũng như các ngành sản xuất khác, khiến cho đại đa số cán bộ quần chúng bất mãn và chống lại, sự hỗn loạn cũng như mâu thuẫn xã hội sâu sắc thêm một bước. Đồng thời do sự nhận thức và quan điểm của các tổ chức Hồng vệ binh bất đồng, nên đã phân hoá thành các bè phái hết sức nghiêm trọng. Các bè phái, các tổ chức lại không ngừng tiến hành những cuộc tranh luận và tranh chấp đấu đá. Phong trào đến đây đã làm cho cả vùng đất bao la của Trung quốc sôi lên sùng sục, đúng là đã đạt tới biên giới lý tưởng của nhà tiên tri cách mạng: Thiên hạ đại loạn rồi.​
 
4. Phê phán Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình

Mặc dù tạo phản đương nhiên là “có lý”, mặc dù “cách mạng” đã thành tiêu chuẩn của chân lý, nhưng kể từ khi bùng nổ cuộc Cách mạng văn hoá, thì những trở lực đối với phong trào đó vẫn cứ tồn lại.

Đồng thời với việc phong trào đã dần dần từng bước được mở rộng và sâu thêm, lại càng có nhiều người với thời gian dai dẳng hơn, đã đặt ra nhiều câu hỏi nghi vấn đối với phương hướng, phương thức, cho đến lập luận của phong trào. Phong trào này dù do đích thân Mao Trạch Đông phát động. dù do Lâm Bưu và Giang Thanh hai thế lực ra sức ủng hộ, nhưng vẫn có rất nhiều sức ngăn cản và chống lại, nên những hỗn loạn mới vẫn không ngừng nảy sinh.

Vậy căn cốt của nó là gì, là do bản chất của quyết định phát động phong trào Cách mạng văn hoá sai lầm tạo ra. Nhưng Mao Trạch Đông lại cho rằng, sớ dĩ nảy sinh ra những trở ngại, từ cốt lõi, chính là Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình cầm đầu cho rằng, trong đảng có một nhóm kẻ cầm quyền đi theo con đường tư bản, do Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình cầm đầu. Ông ta cũng cho rằng, đường lối tư bản chủ nghĩa này cũng đã có được địa vị thống trị tương đối rồi, hơn thế, cho đến bây giờ, trong đảng vẫn còn đất sống cho nó. Muốn bảo đảm Cách mạng văn hoá tiến hành được thuận lợi, nhất định phải quét cho hết những trở ngại trên con đường tiến lên.

Bắt đầu từ ngày 9 đến ngày 28.10.1966, Mao Trạch Đông triệu tập hội nghị công tác trung ương, thêm một lần nữa phê phán “đường lối phản động của giai cấp tư sản”, mà đại biểu là Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Mặc dù rằng hội nghị do đích thân Mao Trạch Đông triệu tập: một số đồng chí ở trung ương cũng như các địa phương vẫn biểu hiện ra những “trì trệ “, “rất khó hiểu” và theo không kịp phong trào của họ. Đúng như Mao Trạch Đông đã phê bình rằng: “phát ngôn ở giai đoạn đầu, rất không bình thường”

Chẳng bao lâu sau, những ông kễnh Cách mạng văn hoá đã xuất tướng. Trần Bá Đạt, tổ trưởng Tổ Cách mạng văn hoá trung ương, kể lể dài dòng tới sáu điều lớn, đo đếm những công lo trạng nhỏ của Cách mạng văn hoá, rồi phê phán đích danh Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, lão nói:

- Đường lối sai lầm của Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình có cơ sở xã hội của nó, cái cơ sở xã hội này chủ yếu là giai cấp tư sản. Đường lối sai lầm trong đảng cũng có đất sống nhất định của nó, bởi trong đảng có một nhúm kẻ cầm quyền đi theo con đường tư bản, cũng lại còn có một nhóm tương đối lớn những kẻ hồ đồ chưa được cải tạo về thế giới quan và chưa được cải tạo đến nơi đến chốn. Lâm Bưu giữ một địa vị hiển hách, trong bài nói mang tính kết luận của mình, ngoài việc cực lực tuyên dương tính tất yếu cũng như ý nghĩa trọng đại của Cách mạng văn hoá, còn đích danh công kích việc thi hành điều một: đàn áp quần chúng, và đường lối phản cách mạng. Ông ta còn nói:

- Trong một thời gian ngắn, đường lối này của Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình cũng đã có được một địa vị thống trị tương đối.

Khang Sinh và những người khác đều nhao nhao phát biểu ý kiến, âm thanh gào thét của cả cái mớ phê phán ấy khiến cho cả hội nghị nồng nặc mùi thuốc súng. Trong hội nghị, người cấp dưới của Đặng Tiểu Bình hồi ở Dã chiến quân thứ hai là Tạ Phú Trị đã tiên phong xung trận, lên tiếng trước, phê phán Đặng Tiểu Bình. Lão nói:

- Trong vòng ba mươi năm, cái ấn tượng “luôn luôn chính xác” của Đặng Tiểu Bình trong mọi người đã có ảnh hưởng rất lớn trong đảng, lần phê phán đường lối phản động của giai cấp tư sản này, sở dĩ nó vấp phải trở ngại to đến như vậy, không phải là không liên quan gì tới loại ảnh hưởng này.

Trần Bá Đạt phê phán một trọng điểm của Đặng Tiểu Bình, bảo rằng Đặng Tiểu Bình là kẻ tiên phong trong đường lối sai lầm, đồng thời thanh toán một lần tất cá các món nợ cũ nợ mới tính từ những năm 60. Lâm Bưu nói liều, nói bậy lung tung rằng, Đặng Tiểu Bình đã từng tranh công của Dã chiến quân thứ tư, và nham hiểm vu cáo rằng, trước kia Đặng Tiểu Bình đã từng là lính đào ngũ (ý nói tới thời kỳ ở quân đoàn Hồng quân số 7), với ý đồ làm tăng thêm tội lỗi của Đặng Tiểu Bình trong quá khứ. Ngày 25.10.1966, Mao Trạch Đông nghe báo cáo lại ý kiến của hội nghị cũng tỏ ra bất bình với Đặng Tiểu Bình. Mao Trạch Đông nói rằng, Đặng Tiểu Bình tai điếc, vậy mà trong các cuộc họp lại cứ chọn chỗ ngồi thật xa chỗ ông ta, nói rằng xưa nay Đặng Tiểu Bình chưa bao giờ tự tìm tới gặp ông ta. Tính từ nắm 1959 tới nay, cả sáu năm giời chưa bao giờ báo cáo công tác với ông ta.

Cũng chính ngày 25, khi hội nghị sắp kết thúc, Mao Trạch Đông chính thức nói chuyện với hội nghị. Ông ta nói, lần hội nghị này “tức là phải tổng kết lấy một số kinh nghiệm, để làm công tác tư tưởng chính trị”, giải quyết vấn đề “tư tưởng không thông”. Ông ta còn nói đến nguyên nhân phát động phong trào: Cách mạng văn hoá, bởi vì trước kia ông ta đã quá tin người, khi ở trung ương chia ra làm tuyến một, tuyến hai, nên đã xuất hiện khá nhiều vương quốc độc lập, ý kiến của ông ta không được thực hiện ở Bắc Kinh, thúc đẩy cũng không được. Đối với bản thân phong trào. Mao Trạch Đông cũng chẳng vui vẻ gì nói:

- Thời gian rất ngắn, cái thế xô tới lại rất mạnh. Tôi cũng chẳng ngờ được, bài đại tự báo (của trường đại học Bắc Kinh) vừa được đài phát đi, đã làm rung động toàn quốc... Hồng vệ binh vừa xông tới đã làm cho các vị táng đởm kinh hồn... Ngọn đuốc của Đại cách mạng văn hoá là do tôi đốt cháy lên đấy...

Tuy nhiên để trừ diệt mọi trở lực, Mao Trạch Đông lại tiếp tục phê phán Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, nhưng cũng chính lúc đó ông ta lại nhận định rằng, những vấn đề ở trung ương đã được giải quyết. Vấn đề của Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình và nhiều cán bộ khác vẫn chỉ là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Ông ta còn nói, cần phải cho phép người ta được mắc sai lầm, hai người Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình và họ làm công khai, cần phải cho phép họ làm cách mạng. Ông ta còn nói với những người đến dự hội nghị rằng: “Tôi không đánh đổ các vị đâu, xem ra Hồng vệ binh cũng chẳng đánh đổ các vị làm gì. Các vị không vượt qua được cửa quan, tôi cũng bối rối lắm chứ. Thời gian còn quá ngắn, nên cũng có thể bỏ qua đi được, không phải là sự sai lầm cố ý về đường lối, có người đã nói rằng phạm sai lầm chẳng qua chỉ tại mơ hồ thôi, cũng không thể hoàn toàn trách đồng chí Lưu Thiếu Kỳ, đồng chí Đặng Tiểu Bình, hai đồng chí ấy mắc sai lầm, cũng có nguyên nhân của nó. Ông ta còn dự báo:

- Phong trào này mới được có năm tháng, có thể phải tiến hành trong hai lần năm tháng như thế, cũng có thể là dài hơn thời gian đó một chút...​
 
4. Phê phán Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình

Như vậy có nghĩa rằng, phong trào này phải làm trong một năm, hoặc hai năm, mới gọi là hoàn thành sứ mạng, và tròn trịa kết thúc. Đối với việc đó, hầu như Mao Trạch Đông rất tự tin. Nhưng có điều bất hạnh là, sự thực cuối cùng đã chứng minh: ông ta sai. Cuộc họp toàn thể trong ngày 23.10.1966, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình làm kiểm điểm. Bản kiểm điểm của Lưu Thiếu Kỳ đã được Mao Trạch Đông thẩm duyệt rồi mới mang ra đọc. Lưu Thiếu Kỳ đã kiểm điểm “những sai lầm” của mình trong năm mươi ngày Cách mạng văn hoá và cả trong quá khứ nữa, không hề né tránh, dám chịu trách nhiệm. Nhưng trong tình thế đó, dù có tự phê trái với lòng mình, cũng chẳng được tích sự gì.

Bản kiểm điểm của Đặng Tiểu Bình cũng là tự phê bình. Đồng thời đối với việc tự kiểm điểm sai lầm của mình, Đặng Tiểu Bình cũng gánh lấy trách nhiệm về mình, đề khỏi làm vạ lây đến những người khác trong cuộc phê phán này, ông biết, người chịu trách nhiệm về đường lối phản động của giai cấp tư sản trong cuộc Đại cách mạng văn hoá này, trong các đồng chí lãnh đạo trung ương, trong phạm vi toàn quốc, chính là đồng chí Lưu Thiếu Kỳ và tôi... Cần phải nói rõ ràng rằng, tuyệt đại đa số những đồng chí trong tổ công tác là người tốt, cá biệt có một số đồng chí mắc sai lầm trong đoạn thời gian công tác này, chịu trách nhiệm chủ yếu không phải là các đồng chí đó, mà phải là tôi và đồng chí Lưu Thiếu Kỳ.

Bản kiểm điểm của Đặng Tiểu Bình cũng đã từng phải đưa cho Mao Trạch Đông thẩm duyệt. Ngày 22.10.1966, Mao Trạch Đông phê son: Đồng chí Tiểu Bình: có thể cứ thế này mà đọc. Nhưng ở trang... sau chữ “làm lại, chuộc lỗi” trong hàng thứ nhất nên chăng có thêm vài lời tích cực hơn nữa, thí dụ như, với sự nỗ lực của bản thân cùng sự tích cực giúp đỡ của các đồng chí, tôi tin tưởng rằng sai lầm sẽ được kịp thời khắc phục, đề nghị các đồng chí cho tôi thời gian, tôi sẽ đứng dậy được. Đã nửa đời người hoạt động cách mạng, nay vấp ngã, làm sao lại không đứng dậy được?

Mọi người đều biết rằng, kẻ từ khi Cách mạng văn hoá tới đó, Mao Trạch Đông vốn rất tức tối với Đặng Tiểu Bình. Nhưng xem qua những hàng son phê của ông ta, bất cứ ai, trong lòng đều như được an ủi. Tôi nhớ câu: “Đã nửa đời người hoạt động cách mạng, nay vấp ngã làm sao lại không đứng dậy được” đã từng làm cho cả gia đình tôi được một niềm an ủi rất lớn.

Đến khi đó, chúng tôi đều biết bố tôi mắc sai lầm, nên cũng rất quan tâm đến vận mạng chính trị của bố tôi. Khi ấy chị hai Đặng Nam tôi đang mải miết đi xâu chuỗi ở bên ngoài, mẹ tôi vội vã gọi chị trở về nhà. Sau khi về nhà, Đặng Nam cứ tối tối lẻn vào phòng ngủ của mẹ, rồi chui vào trong chăn, hai mẹ con trùm chắn kín đầu, thì thầm nói chuyện. Mẹ nói cho chị biết tiểu sử của cha, nói về công việc của cha ở trung ương trước khi phong trào Cách mạng văn hoá bùng nổ, nói về những quan hệ của cha với Bành Chân, La Thuỵ Khanh... Mẹ nói cho con gái biết rằng, cha là người trong sạch, không có vấn đề gì. Từ xưa tới này, cha chưa bao giờ nói về mình, mặc dù chúng tôi rất yêu cha mình, nhưng lại không hề biết tiểu sử của cha, cũng chẳng biết rằng cha lại có nhiều chuyện đến thế trong tiểu sử cũng như trong công tác của mình. Nghe mẹ kể chuyện về cha, chúng tôi cũng như mẹ tôi. tin tưởng vững chắc rằng, bố tôi chẳng có vấn đề gì. Thậm chí chúng tôi còn đơn giản nhận định rằng, Mao Chủ tịch chỉ đối phó với việc chứ không đối phó với người, chỉ là phê phán những sai lầm trong Cách mạng văn hoá, nếu có bị xử lý, cũng chỉ đến giáng chức là cùng, mà không thể ngờ rằng bố tôi lại bị đánh đổ hoàn toàn.

Hội nghị cũng họp rồi, kiểm điểm cũng đã kiểm điểm rồi, chúng tôi chờ đợi một kết quả với suy nghĩ đơn giản của mình. Sự kiện Bành Chân, La Thuỵ Khanh, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn xuất hiện, rồi cục diện hỗn loạn của Cách mạng văn hoá hình thành, tuy cũng đã đủ để mọi người thấy được sự nghiêm trọng của tình thế, và bàng hoàng về tâm lý, nhưng trong toàn đảng, kể cả bố tôi hoặc cũng có thể nói được rằng: đại đa số các cán bộ cao cấp trong đảng vẫn không có - cũng không có khả năng có - một chuẩn bị tư tưởng nào để đối phó với hàng loạt các vụ nổ mang tính dây chuyền sẽ phát nổ trong nay mai.

Hội nghị đã kết thúc, nhưng cuộc phê phán vẫn không kết thúc như chúng tôi hằng mong mỏi. Ngày 2.11.1966, từ trong nội bộ Ban tổ chức trung ương Đảng Сộng sản Trung quốc, đột ngột xuất hiện đại tự báo, phê phán Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Ngày 8.11.1966, ở trường đại học Bắc Kinh, Nhiếp Nguyên Tử cũng dán bài báo “Đặng Tiểu Bình là kẻ cầm quyền trong đảng, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”, kê ra một loạt tội danh của Đặng Tiểu Bình, nào là đầu sỏ chống sùng bái cá nhân, nào là công khai cổ vũ nông thôn khôi phục chế độ làm ăn riêng lẻ, chống đối Cách mạng văn hoá, tên thứ nhất đứng sau Bành Chân v.v...

Sau khi nghe tin đó, chúng tôi không thể không căng thẳng lo lắng. Hai chị tôi và tôi đạp ba chiếc xe đạp, len lỏi vào các trường, tìm đọc đại tự báo ở khắp nơi. Chúng tôi định rằng, xem xem trong đại tự báo nói những gì, và bố tôi, cuối cùng là có vấn đề gì. Xem đi xem lại, thấy rằng ngoài những “sai lầm” về Cách mạng văn hoá, thì những “vấn đề” khác hầu như chẳng lấy gì làm nghiêm trọng, nhiều nhất là nắm không vững vàng sâu sắ, không theo kịp “đường lối cách mạng” của Mao chủ tịch. Điều khiến chúng tôi cảm thấy yên lòng nhất là không có “vấn đề quá khứ”. Nhưng những chữ nghĩa ác độc của đại tự báo đã được tăng lên rất cao, đọc xong vẫn thấy rợn tóc gáy. Phê phán còn chưa kết thúc, chỉ riêng điểm này cũng thấy quá rõ ràng rồi. Điều duy nhất khiến chúng tôi cảm thấy được một chút yên lòng, là dù họ có gạn tim moi óc, bới gốc đào rễ đề soi mói vạch tội, cũng vẫn chẳng có vấn đề gì lớn để đẩ bố tôi vào đất chết được.

Thu đã về, trời dần dần trở lạnh, xào xạc gió thổi, lá tả lá bay, đất trời xơ xác điêu tàn.

Đến lúc đó, bố tôi cũng giống như Lưu Thiếu Kỳ, đã hoàn toàn không còn tham gia bất cứ cuộc họp hành nào nữa, chỉ ngồi nhà. Đọc một số văn kiện gửi tới. Tất nhiên rằng, những văn kiện này, bất kể là về số lượng hay nội dung, đều không thể so sánh với trước kia được. Đối với số phận chính trị của mình, bố tôi chỉ còn chọn lựa một thái độ đợi chờ.

Bố tôi mắc sai lầm, đám trẻ chúng tôi đều không hiểu biết được gì hết. Có một lần, chị cả Đặng Lâm hỏi bố tôi:

- Chúng con nên hiểu về phong trào này như thế nào?

Lúc ấy bố tôi còn biết nói gì ông chỉ nói một câu:

- Các con hãy tự mình nhận xét lấy.

Bố tôi mắc sai lầm, chúng tôi cũng theo đó mà mắc sai lầm trong các cuộc kiểm điểm có người đã bị đem nhốt lại, bị hạn chế tự do nhân thân. Những cuộc phê phán có lúc kết thúc được không? Bao giờ thì kết thúc, và bưóc tiến sau của nó sẽ phát triển tới mức độ nào? Chúng tôi chẳng có một chút hiểu biết nào hết.

Mao Trạch Đông đã phê phán Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, nhưng cho đến tận lúc ấy, ông ta vẫn còn chưa hạ quyết tâm đánh đổ hoàn toàn Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình như đã làm với Bành Chân. La Thuỵ Khanh, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn. Bởi đối với Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, ông ta còn đang suy tính cách thức xử lý khác nhau.

Đối với Lưu Thiếu Kỳ. Mao Trạch Đông đã thay thế Lâm Bưu vào làm người kế cận, vậy thì Lưu Thiếu Kỳ, người vốn đã được sắp xếp làm người kế cận trước kia, tất nhiên là phải đi toi rồi, vấn đề chỉ còn là mức độ xử lý ra sao thôi.

Đối với Đặng Tiểu Bình, vốn là người mà trước kia Mao Trạch Đông rất tán thưởng, nên vẫn muốn trọng dụng, nhưng sau khi đại nhẩy vọt thất bại, Đặng Tiểu Bình cùng những người lãnh đạo trung ương khác đã dần dần lảng tránh cách làm của “cánh tả”, khiến cho Mao Trạch Đông sinh ra những tức tối đối với những người lãnh đạo tuyến một ở trung ương, trong đó có Đặng Tiểu Bình. Sự tức tối đó càng ngày càng sâu thêm, đồng thời cùng với sự phát triển của mọi việc mà diễn biến thành một quyết tâm tiến hành thay thế nhân sự. Hồi mới bắt đầu tiến hành Cách mạng văn hoá, khi Mao Trạch Đông quyết định dùng Lâm Bưu làm người kế cận, ông ta vẫn chưa nghĩ tới việc cách cổ Đặng Tiểu Bình một cách triệt để, bởi ông ta vẫn muốn tiếp tục dùng, vẫn muốn sắp xếp Đặng Tiểu Bình vào cơ cấu nhân sự mới. Chính vì vậy mà Mao Trạch Đông đã có một lần tìm Đặng Tiểu Bình để chuyện trò trao đổi. Trong hồi ức, bố tôi vẫn nhớ: khi mở màn Cách mạng văn hoá chủ tịch đã tìm tôi nói chuyện, khuyên tôi cần phải có quan hệ tốt với Lâm Bưu. Tôi đồng ý, nhưng chỉ sau một lần trò chuyện với Lâm Bưu, là tan luôn.

Sự tan vỡ với Lâm Bưu đã tiên báo rằng trên con đường thăng tiến của mình, Lâm Bưu quyết không dung tha Đặng Tiểu Bình, Lâm Bưu biết một cách sâu sắc rằng, sự tức tối bực bội của Mao Trạch Đông đối với Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình có mức độ khác nhau, không những mức độ không giống nhau, mà cả tính chất cũng không giống nhau. Sự khác nhau đó, khiến cho việc xử lý Đặng Tiểu Bình như thế nào, trở thành tương dối quan trọng. Sau khi Lưu Thiếu Kỳ bị cách cổ đi rồi, Đãng Tiểu Bình đã thành mối lo canh cánh nhất trong tâm khảm Lâm Bưu. Một con người đầy mưu kế như Lâm Bưu phải biết chắc rằng, muốn trừ diệt được Đặng Tiểu Bình, cần phải trổ hết tài mẫn cán của nịnh, không ngừng tăng cường sức nặng trong việc tấn công, phê phán Đặng Tiểu Bình.

Ngày 6.12.1966, trong một cuộc họp, Lâm Bưu nói chuyện, nói rằng: vấn đề của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình không chỉ là vấn đề năm mươi ngày, mà là vấn đề mười năm, hai chục năm, hắn đã tăng vấn đề Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình lên mức cực cao.

Cùng lúc đó, thấy Mao Trạch Đông tuy đã phê phán Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, nhưng lại chưa có động tĩnh gì về việc chuẩn bị đánh đổ hẳn, nên Trần Bá Đạt, Khang Sinh, Giang Thanh cùng những ông kễnh khác trong Ban Cách mạng văn hoá trung ương liền liên kết với tập đoàn Lâm Bưu, bàn bạc với nhau trong phòng kín, để gây nên một cơn sóng gió to lớn hơn, đẩy Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình vào đất chết, mà vỗ tay trong bị. Ngày 18.12.1966, Giang Thanh công khai cổ động cho việc đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ. Cũng ngày hôm đó, Trương Xuân Kiệu gọi tên cầm đầu phái tạo phản ở trường Đại học Thanh Hoa là Khoái Đại Phú vào Trung Nam Hải bí mật bàn bạc, bố trí thi hành những biện pháp cụ thể đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình.

Ngày 25.12.1966 cũng là ngày chỉ còn dăm hôm nữa sẽ kết thúc năm 1966, thì 5.000 thầy trò trường Đại học Thanh Hoa đội giá, gội rét, tuần hành thị uy tới Thiên An Môn, làm lễ hội sư, quyết triệt để đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình.

Ngày 27.12.1966, các phái tạo phản ở các trường đại học Bắc Kinh mở một đại hội triệt để phê phán “đường lối giai cấp tư sản phản động của Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình” tại sân vận động Công nhân. Nhiếp Nguyên Tử và những lên đầu mục của phái tạo phản tha hồ dùng những lời lẽ ác độc để bôi nhọ, vu cáo, đả kích Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình.

Từ đó, các phái tạo phản ở khắp nơi ào ào hưởng ứng, ủng hộ, làm cho toàn quốc lại bùng lên một trận cuồng phong mới, thanh thế rầm rộ, đả đảo Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình.

Năm 1966 là một năm đặc biệt hoàn toàn khác thường.

Năm ấy sẽ là một trang sách cực kỳ đặc biệt được đưa vào sử sách bởi một phong trào cách mạng tạo phản từ lên dội xuống vô cùng vĩ đại, chưa từng có trong lịch sử”, đột ngột bất ngờ ập tới. Năm đó, với lý tưởng cao cả, không ngừng cách mạng, Mao Trạch Đông, dùng sức tưởng tượng và tinh thần thực tiễn vô biên của mình, làm cho thế giới phải tròn xoe con mắt, hiểu được sức mạnh vĩ đại của “quần chúng cách mạng”.

Cách mạng còn chưa tới thời kỳ cuối cùng. Ngày cuối cùng trong năm đó, Mao Trạch Đông dự đoán như một nhà tiên tri: sang năm - tức là năm 1967 - sẽ là một năm triển khai cuộc đấu tranh giai cấp toàn diện trên toàn quốc.
Lởi dự báo ấy, như một lá bùa bao phủ lên toàn đại địa Thần Châu.​
 
Sửa lần cuối:
5. Tổng tiến công vào “kẻ cầm quyền đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”

Ngày 1.1.1967, báo, tạp chí của đảng cho in bài xã luận “Hãy tiến hành cuộc Đại cách mạng văn hoá của giai cấp vô sản tới cùng”, kêu gọi mở cuộc tấn công vào “Một nhúm người cầm quyền trong đảng đi theo đường lối tư bản” và “lũ đầu trâu mặt ngựa” ngoài xã hội.

Với lời kêu gọi “tổng tiến công” đó, lại càng có thêm nhiều cán bộ lãnh đạo từ trung ương đến các địa phương các ngành bị phê phán và đánh đổ. Ngày 11.1.1967, hội nghị của Bộ Chính trị trung ương Đảng сộng sản Trung quốc quyết định bãi bỏ tư cách có mặt tại các hội nghị Bộ Chính trị của Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Đào Chú (uỷ viên thường vụ Bộ Chính trị Đảng сộng sản Trung quốc, bí thư thường vụ Ban bí thư trung ương), Trần Vân (phó chủ tịch trung ương Đảng сộng sản Trung quốc, uỷ viên thường vụ Bộ Chính trị, Phó thủ tướng Quốc vụ viện), Hạ Long (Nguyên soái nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, uỷ viên Bộ Chính trị trung ương Đảng сộng sản Trung quốc Phó thủ tướng Quốc vụ viện, phó chủ tịch Quân uỷ trung ương). Uỷ viên thường vụ Bộ Chính trị trung ương Đào Chú bị Ban Cách mạng văn hoá trung ương vu cho là “phái bảo hoàng to lớn nhất”, Nguyên soái Hạ Long bị Lâm Bưu chỉ đích danh là “đại thổ phỉ”, bí thư thứ nhất tỉnh uỷ Hồ Bắc, Vương Nhiệm Trọng; bí thư thứ nhất thành uỷ Thượng Hải, Trần Phi Hiển: bí thư thứ nhất tỉnh uỷ Cát Lâm, Triệu Lâm; bí thư thứ nhất tỉnh uỷ Phúc Kiến, Diệp Phi; bí thư thứ nhất tỉnh uỷ Giang Tô, Giang Vị Thanh; bí thư thứ nhất tỉnh uỷ Sơn Đông, Đàm Khải Long; bí thư thứ nhất tỉnh uỷ An Huy, Lý Bảo Hoa; bí thư thứ nhất tỉnh uỷ Chiết Giang, Giang Hoa; bí thư thứ nhất tỉnh uỷ Giang Tây, Phương Chí Thuần; phó chủ nhiệm tổng cục chính trị quân Giải phóng, Lưu Chí Kiên, và một số cán bộ lãnh đạo các tỉnh, cùng quân đội tiếp nhau bị hạ bệ. Trong cuộc đấu tố cuồng bạo thảm khốc, Diêm Hồng Ngạn, bí thư thứ nhất tỉnh uỷ Vân Nam; Vệ Hằng, bí thư thứ nhất tỉnh uỷ Sơn Tây, bị hành hạ đến chết; Trương Lâm Chi, bộ trưởng Bộ Công nghiệp than, bị đánh đến chết; Đào Dũng, tư lệnh hạm đội hải quân Biển Đông cũng bị chết chẳng rõ ràng gì.

Các cấp chính quyền được thành lập sau khi dựng nước Trung quốc mới “nhất loạt diệt vong”, lãnh đạo các cấp tiếp tục bị đánh đổ, thật đúng là những năm tháng điên khùng.

Nhưng, nếu chỉ riêng đánh đổ lãnh đạo đảng và chính quyền các cấp, vẫn không no nê được dã tâm của bè lũ Lâm Bưu và Cách mạng văn hoá. Với kế sách của Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên ở Ban Cách mạng văn hoá trung ương, bắt đầu từ tháng giêng, phái tạo phản ở Thượng Hải cướp đoạt quyền của đảng và chính quyền thành phố. Thế là bắt đầu từ đấy, được sự khẳng định của Mao Trạch Đông, trong phạm vi toàn quốc dấy lên cả một phong trào cướp đoạt chính quyền. Lấy phái tạo phản của Cách mạng văn hoá làm cơ sở, tổ chức thành Uỷ ban cách mạng, thay thế cho mọi cơ cấu tổ chức của đảng và nhà nước.

Đối với phong trào tiếm quyền, Mao Trạch Đông không những tán thành ủng hộ, mà còn coi đó là một biện pháp thực thi chủ yếu để thực hiện lý tưởng cách mạng liên tục của ông ta. Lý tưởng của ông ta là nhờ vào cuộc “Biến đổi cách mạng vĩ đại nhất, chưa từng có trong lịch sử nhân loại” để đập phá cho tan nát cái thế giới cũ trong tay “kẻ cầm quyền đi theo đường lối tư bản”, xây dựng một thế giới mới, cách mạng hoá hoàn toàn mới. Hình thức cụ thể của thế giới lý tưởng, tức là xây dựng một chính quyền “cách mạng” hoàn toàn mới, nằm trong tay của phái cách mạng vô sản, giống như công xã Pa ri, tức là Uỷ ban Cách mạng!

Mao Trạch Đông nói: Đại cách mạng văn hoá sẽ đi từ “Thiên hạ đại loạn” tới chỗ Thiên hạ đại trị. Thành lập Uỷ ban Cách mạng, phải chăng đó là một loại “đại trị” như trong lòng ông ta hằng mong ước? Nếu quả là như vậy, thì hỏng bét và sai toét rồi. Cái “đại trị” không che đậy nổi sự thật, là tiếp tục đại loạn, là cái sự nghiệp ấy đã hẫng chân, không thể thu vén lại được, càng thêm đại loạn rối ren hơn.

Phải tạo phản tấn công vào trường học, tấn công vào các cấp đảng và chính quyền địa phương, tấn công vào quân đội, những sự kiện hỗn loạn một cách đại quy mô hơn tiếp nảy sinh, ở Thành Đô đã xảy ra chuyện “chống đối lẫn nhau” giữa phái”tạo phản và quân đội, ở Tây Ninh đã xảy ra chuyện quân đội bắt buộc phải nổ súng phản kích phái tạo phản, và có người bị bắn chết, ở Vũ Hán đã xảy ra chuyện phái tạo phản tấn công vào báo chí, vào quân đội dẫn tới việc quân đội “bắt người”, ở Quảng Đông, Nội Mông Cổ, An Huy, Hà Nam, Hồ Nam, Phúc Kiến, Tây Tạng và nhiều nơi khác đều liên tục xảy ra các vụ việc cứ như cơn bão lan ra vậy.

Sau khi Cách mạng văn hoá bắt đầu, trước hết là xảy ra chuyện đấu tố và lục soát nhà cửa, tiếp đó là hàng loạt cán bộ bị bức hại và đánh đổ. Tất cả, tất cả những cái đó khiến cho rất nhiều, rất nhiều người, từ hoang mang lúc đầu biến thành bất an, biến thành chống đối, biến thành phẫn nộ.”

Tháng hai, với một bên là Trần Nghị (1), Diệp Kiếm Anh(2), Từ Hướng Tiền(3), Nhiếp Vinh Trăn(4), Lý Phú Xuân, Lý Tiên Niệm(5), Đàm Chấn Lâm(6), Dư Thu Lý(7), Cốc Mục(8) cùng các cán bộ lão thành khác, gươm đao vào trận đấu tranh với Cách mạng văn hoá trung ương mà đại diện là Khang Sinh, Trần Bá Đạt, Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên.

(1) Trần Nghị: Nguyên soái nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, uỷ viên Bộ Chính trị trung ương Đảng сộng sản Trung quốc, phó thủ tướng Quốc vụ viện, phó chủ tịch Quân uỷ trung ương.

(2) Diệp Kiếm Anh: Nguyên soái nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Сộng sản Trung quốc, bí thư Ban bí thư trung ương, phó chủ tịch Quân uỷ trung ương

(3) Từ Hướng Tiền: Nguyên soái nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, uỷ viên Bộ Chính trị đảng сộng sản Trung quốc, phó chủ tịch Quân uỷ trung ương.

(4) Nhiếp Vinh Trăn: Nguyên soái nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, uỷ viên Bộ Chính trị Đảng сộng sản Trung quốc. phó chủ tịch Quân uỷ trung ương.

(5) Lý Tiên Niệm: uỷ viên Bộ Chính trị Đảng сộng sản Trung quốc. phó thủ tướng Quốc vụ viện. (Nguyên chú)

(6) Chấn Lâm: uỷ viên Bộ Chính trị trung ương Đảng сộng sản Trung quốc, phó thủ tướng Quốc vụ viện.

(7) Dư Thu Lý: Phó chủ nhiệm thứ nhất kiêm thư ký trưởng Uỷ ban Kế hoạch nhà nước.

(8) Cốc Mục: Chủ nhiệm Uỷ ban xây dựng nhà nước


Cả lớp các đồng chí lão thành cách mạng này đã từng vì cách mạng mà vào sinh ra tử, vì xây dựng xã hội chủ nghĩa mà đổ bao mồ hôi tâm huyết, trong hội nghị của Bộ Chính trị, hội nghị Quân uỷ trung ương đã tố cáo những hành động bạo ngược và phi pháp xảy ra trong Cách mạng văn hoá, đã phẫn nộ lên án những âm mưu và hành động ngỗ ngược, lật đổ của Ban Cách mạng văn hoá trung ương, lời lẽ mạnh mẽ của ngôn từ, thái độ đàng hoàng, hiên ngang, nộ khí bừng bừng, thật đáng gọi là chính khí lẫm liệt, sảng khoái tràn trề.

Song, có điều bất hạnh là, những lời nói chân chính ấy không những không hoán tỉnh được Mao Trạch Đông, mà ngược lại, khiến ông ta cảm thấy rằng đây là những lời dèm pha, sự trở ngại xưa nay chưa từng có đối với phong trào cách mạng do đích thân ông ta đứng ra phát động. Ông ta đã nghiêm khắc phê bình và chụp mũ cho sự phản kháng này là dòng “nước ngược tháng hai”, đồng thời hạ quyết tâm phá bỏ hết mọi trở lực, tiếp tục đi sâu, mở rộng phong trào “cách mạng”, “chưa từng có trong lịch sử”, nhưng lại luôn luôn làm cho mọi người bối rối, không sao hiểu nổi.

Trong tháng ba, đã triệu tập cuộc họp ban công tác trung ương, Mao Trạch Đông lại thêm một lần nữa phê phán Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, đồng thời trong thời gian đó cho thành lập “Tổ chuyên án Lưu Thiếu Kỳ” chuyên việc điều tra “tội lỗi” của Lưu Thiếu Kỳ.

Trong tình trạng mà sự phê phán càng ngày càng thêm mạnh mẽ, việc công khai chỉ đích danh Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, đặc biệt là đối với Lưu Thiếu Kỳ đã trở thành điều tất nhiên. Ngày 1.1.1967, báo “Nhân dân” và tạp chí Cờ đỏ in một bài của Thích Bản Vũ (tổ viên Tổ Cách mạng văn hoá trung ương) phê phán Lưu Thiếu Kỳ với tựa đề: “Chủ nghĩa yêu nước hay chủ nghĩa bán nước”. Trong bài đó ngoài việc dùng câu “Kẻ cầm quyền lớn nhất trong đảng đi theo đường lối tư bản” để thay thế cho cái tên Lưu Thiếu Kỳ, còn chụp cho Đặng Tiểu Bình danh hiệu “Một kẻ cầm quyền lớn nhất khác trong đảng đi theo đường lối tư bản”, để công khai phê phán. Công khai phê phán, tuy chẳng chỉ rõ họ tên ra, nhưng tất cả bàn dân thiên hạ đều biết đây chính là một cuộc đánh đổ. Trong thời kỳ không bình thường đó, đấu tố không cần thỉnh thị, tóm cổ lôi ra là đấu, ai lôi cổ ai ra, người đó có thể đấu, lúc nào tóm cổ được là lôi ra đấu ngay lúc bấy giờ. Đánh đổ cũng không cần phê chuẩn, chỉ cần cấp trên - đương nhiên là chỉ Lâm Bưu, Giang Thanh, và những ông kễnh Cách mạng văn hoá - có người ra hiệu, hoặc phái tạo phản nhận thấy rằng, cần phải như thế, là lập tức có thể lôi người ta ra. Khi đấu tố vừa bắt đầu, khi khẩu hiệu vừa gào lên, coi như đã bị cách cổ, và cũng coi như đã bị đánh đổ. “Nhưng nếu muốn đánh đổ cán bộ cao cấp của đảng, của nhà nước hoặc lãnh đạo tối cao, thì còn cần phải có một “trình tự”, “chính thức”, đó là còn cần phái có báo chí công khai phê phán. Vạch mặt chỉ tên cũng có những hình thức khác nhau, một loại là vạch mặt chỉ tên công khai, một loại khác của việc vạch mặt chỉ tên nhưng lại phải đội một cái danh hiệu đã được quy định nào đó. Vào thời đó, bị vạch mặt chỉ tên rõ ràng là một sự kiện lớn, có gọi tên thật ra không, gọi tên những ai, ra, khi nào gọi tên ra, gọi tên như thế nào, đều là một loại “đãi ngộ”.​
 
Sửa lần cuối:
5. Tổng tiến công vào “kẻ cầm quyền đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”

Cách chỉ tên phê phán của báo chí của đảng, ngày một được nâng cấp nhưng vẫn mang hơi hướng của hai người: Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình là: “Kẻ cầm quyền lớn nhất trong đảng đi theo đường lối tư bản”.

Ngày 3.4.1967, bố tôi cầm bút viết cho Mao Trạch Đông một lá thư.

Trong thư viết: “Suốt từ ngày 12.1.1967 đến nay, tôi vẫn mong được gặp Chủ tịch để xin chỉ giáo, nhưng lại cảm thấy rằng, trong khi quần chúng đang kịch liệt phê phán đường lối phản động cũng như hậu quả nghiêm trọng đó của tôi, lại đến cầu kiến Chủ tịch, liệu có thật thích đáng không, cho nên tôi vẫn cứ do dự là vậy. Hôm mới rồi, tôi có đọc bài báo của đồng chí Thích Bản Vũ thấy rằng tính chất sai phạm của tôi đã được định rõ. Nên trong tình hình này, lòng mong mỏi diện kiến, xin chỉ giáo của Chủ tịch rõ ràng là rất cần thiết. Nếu như Mao Chủ tịch cho là được, xin thông báo cho tôi biết bất cứ lúc nào”.

Thư viết cho Mao Trạch Đông được đưa đi, nhưng chẳng thấy có một hồi âm nào, nên chỉ còn biết đợi chờ, sự đợi chờ vô vọng trong hoàn cảnh đầy hiểm nguy, bất trắc.

Ngày 6.4.1967, phái tạo phản xông vào nhà Lưu Thiếu Kỳ, đấu tố vị Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã được bầu chính thức trong Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc. Ngày hôm sau, Lưu Thiếu Kỳ viết đại tự báo tranh luận, biện luận, dán ở Trung Nam Hải, nhưng chỉ mấy giờ đồng hồ sau đã bị xé nát. Ngày 10 cùng tháng, phái tạo phản trường Đại học Thanh Hoa mở một đại hội, có 30 vạn người tham dự đấu tố Vương Quang Mỹ, phu nhân Lưu Thiếu Kỳ.

Việc phê phán Lưu Thiếu Kỳ trở nên điên cuồng, bố tôi và cả gia đình tôi cũng đã chuẩn bị tư tưởng sẵn sàng ứng phó với tình hình càng ngày càng trở nên thảm khốc. Đến tháng năm, có một hôm, chủ nhiệm Văn phòng trung ương đảng là Uông Đông Hưng tìm đến nhà tôi, gặp bố tôi trò chuyện. Uông Đông Hưng nói với Đặng Tiểu Bình: Chủ tịch vừa mới trừ về Bắc Kinh, nhờ Uông Đông Hưng đến thăm Đặng Tiểu Bình. Mao Trạch Đông cho Uông Đông Hưng truyền đạt ba ý kiến của mình: thứ nhất cần nhẫn nại, không nên cuống gấp; thứ hai, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình là riêng biệt; thứ ba. nếu có việc gì có thể viết thư cho ông (Mao Trạch Đông). Sau khi nghe xong những ý kiến của Mao Trạch Đông được Uông Đông Hưng truyền đạt lại, Đặng Tiểu Bình đã tỏ bày: rất nhiều vấn đề được nếu ra trong đại tự báo không dúng sự thật, ông yêu cầu được gặp Mao Chủ tịch để trình bày. Uông Đông Hưng đã chuyển đề đạt đó tới Mao Trạch Đông. Chẳng bao lâu sau, một hôm trời đã khuya, mọi người trong nhà tôi đều đã ngủ cả, ngoài sân tối om. Cũng chẳng biết lúc đó là mấy giờ, đột nhiên lũ trẻ con chúng tôi nghe thấy máy điện thoại réo chuông liên hồi ở nhà phía tây, tôi mơ mơ màng màng choàng dậy đi nhấc điện thoại, tôi nghe thấy tổng đài nói, thư ký tổ một (nơi Mao Trạch Đông) cần tìm thư ký của bố tôi là Vương Thuỵ Lâm để nói chuyện, nhưng Vương Thuỵ Lâm lại không trực ban ở phòng làm việc, nên nhờ tìm Vương Thụy Lâm tới nghe điện thoại. Khi ấy nhà của Vương Thuỵ Lâm ở cách nhà chúng tôi rất gần, nhưng trong nhà lại không có điện thoại. Sau khi đi tìm được Vương Thuỵ Lâm tới không lâu, thì thư ký của Mao Trạch Đông là Từ Nghiệp Phu cũng tới nhà tôi ở bên cạnh Hoài Nhân đường, trong Trung Nam Hải.

Vương Thuỵ Lâm đưa Từ Nghiệp Phu vào phòng ngủ của bố tôi dựng bố tôi dậy, cho biết Chủ tịch muốn gặp bố tôi nói chuyện, bố tôi vội vã trở dậy. Từ Nghiệp Phu không cho mang bảo vệ đi theo, nên bố tôi phải ra đi một mình. Sau khi bố tôi đi rồi, mẹ tôi lo lắng vô cùng. Nên rõ rằng, kể từ sau khi Cách mạng văn hoá phê phán Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình tới đó, Mao Trạch Đông chưa hề cho tìm bố tôi để trò chuyện gì.

Trời sắp sáng, bố tôi mới từ chỗ Chủ tịch trở về. Bố tôi cho mẹ tôi biết rằng, vấn đề chủ yếu mà Chủ tịch hỏi ông là tình hình về giai đoạn những năm 30 khi rời quân đoàn Hồng quân số 7, đến Thượng Hải, đã báo cáo công tác với trung ương như thế nào, ông đã nói lại với Chủ tịch rất tường tận. Chủ tịch có phê bình sai lầm của ông trong việc cử các tổ công tác (xuống trường học - N.D).

Bố tôi cũng nói rằng: ông đã tiếp thu lời phê bình ấy. Bố tôi có hỏi Chủ tịch: sau này có việc cần báo cáo với Chủ tịch thì tìm ai. Chủ tịch đáp: Có thể tìm Uông Đông Hưng, cũng có thể trực tiếp viết thư cho Chủ tịch. Thấy thái độ của Chủ tịch rất ôn hoà, phê bình cũng chẳng lấy gì làm gay gắt, khiến bố tôi như có được một niềm an ủi lớn.

Với sự kích động và ủng hộ của Lâm Bưu, Giang Thanh cùng một số người khác, việc điên cuồng phê phán Lưu Thiếu Kỳ càng ngày càng được nâng cấp. Đến tháng chín. những bài báo trên báo lớn báo nhỏ phê phán Lưu Thiếu Kỳ đã lên tới trên 150 bài. Đầu tháng bảy, phái tạo phản đòi “tóm cổ” Lưu Thiếu Kỳ nằm bên ngoài Trung Nam Hải, bắt Lưu Thiếu Kỳ phải viết kiểm điểm. Ngày 15.4.1967, phái tạo phản Học viện xây dựng lập doanh hạ trại bên ngoài cửa Tây của Trung Nam Hải, chính thức thành lập “chiến tuyến tóm cổ Lưu Thiếu Kỳ”. Với sự kích động của Ban Cách mạng văn hoá trung ương, chiến tuyến tóm cổ Lưu Thiếu Kỳ nhanh chóng mở rộng cờ xí biểu ngữ như sông như biển, lều trại tăng bạt nhấp nhô bạt ngàn, tiếng loa mở hết âm lượng nhức óc rung trời. hàng nhiều vạn con người bao vây nơi ở của Trung ương đảng, của Quốc vụ viện: Trung Nam Hải. Các phái tạo phản luân phiên đấu tố “băng đen” và những kẻ “đi theo tư bản” của các bộ, các tỉnh, cùng với sự ủng hộ của các ông kễnh trong Ban Cách mạng văn hoá trung ương, thay phiên nhau xông vào các cửa lớn của Trung Nam Hải.

Thanh thế phê phán Lưu Thiếu Kỳ có thể nói là cực kỳ to lớn, như nước sôi lửa bỏng, nhưng phê phán đối với Đặng Tiểu Bình xem ra có vẻ rất ôn hoà. Nguyên nhân là: thứ nhất, vì Lưu Thiếu Kỳ là tên đầu sỏ số một “lớn nhất đi theo tư bản”, trước hết cần phải đánh đổ ông đã, nên cần thứ thanh thế khác. Thứ hai là vì cho đến lúc này, trong đầu óc Mao Trạch Đông vẫn còn sự phân biệt trong việc xử lý Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình.

Đối với Mao Trạch Đông mà nói, “sự phẫn nộ giai cấp vô sản” của ông ta đã được nảy sinh ra từ Lưu Thiếu Kỳ, người vốn đã được ông ta chọn lựa làm người kế cận. Còn đối với Đặng Tiểu Bình, tuy sự tức tối đã được nảy sinh từ sau những năm 60, rồi tăng cao dần lên, song cái “khí tức” ấy vẫn không lớn bằng đối với Lưu Thiếu Kỳ. Đồng thời cứ quan sát xem xét những bài nói chuyện và cách làm của Mao Trạch Đông, có thể chứng minh được rằng, đối với Đặng Tiểu Bình, trước sau, trong lòng ông ta vẫn có phần nào ưu ái. Sau khi Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình mắc sai lầm trong Cách mạng văn hoá, Mao Trạch Đông phê phán Lưu Thiếu Kỳ và phê phán cả Đặng Tiểu Bình, nhưng mũi dùi của phê phán trước sau vẫn nhằm vào Lưu Thiếu Kỳ. Đối với việc đó, sau này Đặng Tiểu Bình có nói: “Aii không nghe ông ta, (chỉ Mao Trạch Đông), ông ta sẽ chỉnh cho ngay, nhưng chỉnh đốn đến mức độ nào, bao giờ ông ta cũng có suy tính”.

Trong hồi ức của Vương Lực, thành viên của Ban Cách mạng văn hoá trung ương lúc bấy giờ (có nói), vào ngày 16.7.1967, sau khi Đặng Tiểu Bình đã bị đánh đổ trong một lần nói chuyện riêng giữa hai người, ông ta có nói một câu mang đầy ý vị sâu xa. Mao Trạch Đông nói rằng: “Nếu sức khoẻ của Lâm Bưu không ổn, có khi tôi phải để Đặng Tiểu Bình xuất hiện lại. Chí ít Đặng Tiểu Bình cũng là thường vụ”. Qua câu nói này sẽ thấy được rằng nguyên nhân sự phân biệt đối xử rất có lớp lang của Mao Trạch Đông trong việc phê phán, xử lý Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, đó là sẽ lưu giữ Đặng Tiểu Bình, đến lúc nào đó thấy cần thiết sẽ đem ra dùng lại.

Đối với cách thức suy nghĩ và kiếu cách dùng người như thế của Mao Trạch Đông, bố tôi khó mà biết được. Sau khi bị phê phán, đặc biệt là khi đã bị thủ tiêu mọi tư cách, không được tham gia các cuộc hội họp của Bộ Chính trị trung ương, ông suốt ngày ngồi nhà, chẳng ai tìm đến để làm việc, bàn bạc gì cả. Khi ấy đám trẻ chúng tôi vẫn còn ở chung một nhà, và cũng còn có thể tuỳ tiện ra vào Trung Nam Hải, vì thế, qua chúng tôi, bố tôi còn cơ bản nắm được tình hình đại phê phán, đại loạn ở bên ngoài. Ông cũng giống như những lãnh đạo cao cấp bị phê phán khác ở Trung Nam Hái, đều bị bắt buộc phải đọc đại tự báo của phái tạo phản trong Trung Nam Hải dán ra. Nhưng cũng không giống Lưu Thiếu Kỳ ở chỗ phải viết kiểm điểm đem đọc trước quần chúng cách mạng, và cũng không giống như Lưu Thiếu Kỳ bị “quần chúng cách mạng” đấu tố, tấn công. Chỉ có một lần khi ra đọc đại tự báo, bị “quần chúng cách mạng” trong Trung Nam Hải bao vây. Khi ấy nhất định hẳn đã có một ai đó đứng ra giải thích, vì thế mà không bị rơi vào bước hai là đấu tố.

Đối diện với những cơn phê phán hết đợt nọ tới đợt kia, đối diện với báo chí luôn luôn vạch mặt chỉ tên, đối diện với mọi kiểu tấn công, sỉ nhục thậm chí là vu cáo bịa tạc, mà bố tôi vẫn cứ phải nhìn, phải nghe, phải chấp nhận, phải chịu dựng, thử hỏi trong lòng bố tôi bình tĩnh, yên ổn làm sao được? Nhưng có thể rằng ông là một nhà cách mạng triệt để, nên đã từ lâu rèn luyện mình thành một người không biết sợ, không biết hãi, cũng có thể rằng trong hơn sáu chục năm từng trải của cuộc đời mình, ông đã sớm trải qua những chặng đường khuất khúc, gập ghềnh, bất chút, nên khi gặp phải những cục diện bất thường, gặp phải sự đối xử không công bằng, gặp phải những bước đường không đoán trước được trong tương lai, tuy trong lòng ông không thể không nghĩ không lo, những vẫn có thể âm thầm chờ đợi. Cứ mỗi ngày trở dậy, tiếp tục sống, chúng tôi chẳng thấy có thay đổi gì ở bố tôi, trên nét mặt bố tôi cũng chẳng thấy tỏ rõ một thái độ nào, vẫn cứ trầm lặng như thế, vẫn cứ ít lời như thế. Khi ấy chúng tôi vẫn chỉ là những đứa trẻ trên mười tuổi, chúng tôi bàng hoàng, chúng tôi chẳng hiểu gì, chúng tôi tức giận, chúng tôi cảm nhận được sự oan khuất. Nhưng từ trên con người của bố tôi, chúng tôi đều hoặc nhiều hoặc ít, như có như không, nhận được một chút sức mạnh bảo vệ cho mình. Đám trẻ trong nhà chúng tôi, bất kể là con trai hay con gái, đều rất yêu quý bố tôi, tin tưởng chắc chắn rằng cha của chúng tôi không phải là phần tử “băng đen” phản đảng, phản xã hội chủ nghĩa. Phái tạo phản trong Trung Nam Hải thúc giục chúng tôi vạch tội phê phán cha mình. không viết không được, mà viết lại không thể bịa đặt ra, cuối cùng cả ba chị em chúng tôi, chụm đầu lại, tốt xấu viết ra một chút gọi là, viết xong đem dán ra, mặc bọn tạo phản bảo rằng chúng tôi không chịu vạch vòi, hoặc né tránh, bỏ nặng, nhận nhẹ.

Phía bên ngoài nhà chúng tôi, cả một khu Trung Nam Hải đầy ứ những bài đại tự báo và biểu ngữ. Bên ngoài Trung Nam Hải “chiến tuyến tóm cổ Lưu Thiếu Kỳ” đã mở rộng tới “tóm cổ cả lũ Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình” khiến tình thế càng trở nên nguy cấp. Cả gia đình nhà chúng tôi bao gồm: cha mẹ, bà, và lũ con gái chúng tôi như một lá thuyền đơn trong sóng to gió lớn quăng quật giữa biển khơi, chỉ còn biết cụm chặt lại với nhau, dùng tình yêu thương, tin tưởng để an ủi và giữ vững cho nhau, tìm lấy một chút yên ổn trong linh hồn.

Tương lai của cuộc phê phán ra sao, bố tôi cùng cả gia đình chúng tôi không sao tiên đoán nổi. Nhưng tiếng chuông rung trước xe của cuộc phê phán Lưu Thiếu Kỳ càng ngày càng được nâng cấp, khiến chúng tôi có được sự chuẩn bị tư tưởng trước bước phát triển có thể còn gay go hơn của sự việc.​
 
6. Đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Đào Chú

Phong trào đã tiến hành được hơn một năm, do đích thân Mao Trạch Đông phát động, thúc đẩy cho phong trào phát triển, nuôi dưỡng bọn tạo phản “cánh tả”, phê phán và trừ diệt tất cả mọi thế “lực “phản động” làm trở ngại đến sự phát triển của phong trào, xây dựng về mọi phương diện chính quyền “cách mạng” mới v.v... đều đã đạt được những thành tích về kết quả đúng như ông ta dự kiến. Nếu như tất cả những cái đó là mục đích khi phát động phong trào “cách mạng” này, thì ông ta phải lấy làm mãn ý mới phải. Mục tiêu của ông ta chẳng là bảo đảm cho Trung quốc không biến thành xét lại chẳng là bảo đảm vĩnh viễn tinh thần cách mạng, chẳng là dùng thủ đoạn cách mạng bảo đảm sự thực thi đường lối cách mạng, và dùng thủ đoạn cách mạng để đổi đời, thay thế về tổ chức, về nhân sự, cho đến chính quyền đó sao?

Nhưng, đúng như chính Mao Trạch Đông vẫn thường nói, sự việc luôn luôn đi ngược với mình. Khi phong trào được phát động lên, hơn nữa lại luôn luôn tăng tốc, tiến hành càng ngày càng nhanh chóng, giống như một đoàn tầu chở nặng. dốc sức thẳng tiến về phía trước, với sức mạnh vô bờ, với quán tính cực đại, bất cứ trở lực nào cũng không ngăn cản được. Cả đến Mao Trạch Đông, người đã dấy động phong trào, cũng không thể điều khiển được nhịp độ cũng như hướng đi tới của nó, huống hồ, đây lại do tư tưởng sai hại, tính toán sai lầm đã phát động một phong trào sai lầm. Do tính chất sai lầm quyết định, nó chỉ có thể đi đứng gian nan trên một con đường khúc khuỷu quanh co, chứ không thể lấy ý chí con người mà xoay chuyển được.

Đối với việc phê phán Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, Mao Trạch Đông vốn cũng đã từng nghĩ rằng có khác với Bành Chân, La Thuỵ Khanh, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn. Nhưng Lâm Bưu và cả bè phái Cách mạng văn hoá trung ương lại cho thế là chưa đủ. Bọn họ cho rằng, vẫn phải tiến hành một cuộc đấu tố với thanh thế cực lớn, lấy thanh thế cực lớn của phong trào quần chúng tạo thành một thế lực đánh đổ mà không thể nào cứu vãn nổi, đốc thúc giục Mao Trạch Đông nhanh chóng hạ quyết tâm. Bọn họ khép chặt đội ngũ, tính toán từng bước tiến hành đấu tố chính thức Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình.

Ngày 15.7.1967, Văn phòng trung ương gửi một công văn thỉnh thị xin ý kiến Ban Cách mạng văn hoá trung ương đấu tố Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Trưởng Ban Cách mạng văn hoá trung ương Trần Bá Đạt lấy bút gạch phăng hai chữ “Thiếu Kỳ” và viết thêm vào phía sau: “Vợ chồng Đặng Tiểu Bình, Đào Chú”.

Ngày 18.7.1967, Giang Thanh, Khang Sinh, Trần Bá Đạt v.v... bàn mưu kế tổ chức triệu tập một đại hội “đấu tố Lưu Thiếu Kỳ” để tiến hành đấu tố, lục soát nhà cửa, đồng thời nhân đó được đoạt tự do nhân thân của Lưu Thiếu Kỳ.

Sau khi Lưu Thiếu Kỳ bị lục soát nhà cửa, ông lão phục vụ trong nhà chúng tôi Ngô Hồng Tuấn len lén gọi mẹ tôi ra lối đi sau nhà nói: Hôm nay đã lục soát nhà Lưu Thiếu Kỳ rồi, chở cả một xe các thứ đi, nghe nói ngày mai sẽ lục soát đến nhà này, nên nhanh nhanh thu xếp mọi thứ đi!

Ngày 19.7.1967, phái tạo phản trong Trung Nam Hải gọi cha mẹ tôi tới Hoài Nhân đường ở kề bên, bảo rằng có việc cần hỏi. Sau khi cha mẹ tôi bị đưa đi, phái tạo phản ập vào nhà, bắt đầu lục soát. Đầu tiên bọn họ xục ngay vào phòng làm việc của bố tôi, rồi đến phòng khách, sau nữa đến phòng ngủ của cha mẹ tôi, họ lục đi, soát lại nhưng chẳng lục ra được thứ gì. Thói quen làm việc của bố tôi là: hội họp không ghi chép, ngày thường không ghi nhật ký, diễn văn, nói chuyện không ghi ra giấy, nhiều nhất chỉ là một mẩu giấy ghi vài số liệu, khi đặt bút viết đều viết trên văn kiện. Xử lý văn kiện đều làm xong ngay trong ngày, đọc xong, phê xong là đưa ngay cho thư ký cầm đi. Trong phòng làm việc không bao giờ có một văn kiện nào. Phòng làm việc của ông thật tinh tươm, đơn giản, ngoài số sách đọc ra, hầu như chẳng có thứ gì. Bọn tạo phản lục lọi chán chê, một “cọng rơm” cũng không mò thấy, nên tức tối nói: “Một mẩu ghi chép cũng không thấy, cái lão Tổng bí thư này, chẳng biết lão làm ăn ra sao”. Bọn tạo phản không chịu đi không lại về không, bèn chuyển sang phòng của lũ con cái chúng tôi, lục lọi, rà soát từng phòng một, kết quả là tay trắng vẫn hoàn tay trắng. Hôm đó Phi Phi cũng có mặt ở nhà, bọn họ hỏi: Đọc cái gì? Phi Phi đáp: “Tây du ký”, thực ra lúc ấy trong túi Phi Phi có cỗ bài tú lơ khơ mà bố tôi thường đánh chơi hàng ngày. May mà bọn tạo phản lại không khám người, nếu không họ sẽ tìm ra một tội chứng duy nhất: cỗ bài tú lơ khơ của Đặng Tiểu Bình. Còn nhớ rằng, khi chúng tôi đọc đại tự báo, bọn tạo phản đã liệt kê cho bố tôi một “tội danh” to lớn, đó là “ham đánh kiều bài, ham chơi”: Lục soát rất kỹ khắp nơi, chẳng vớ được cái gì, bọn tạo phản liền ra lệnh cho tôi phải bỏ hết tiền nong và sổ tiết kiệm ra. Bọn họ cứ tưởng nhà tôi giàu có lắm, nhưng trăm ngàn lần không thể ngờ được rằng, gia đình tôi đông nhân khẩu gánh nặng, nên chẳng có lấy một đồng xu tiết kiệm nào, ngược lại còn nợ nhà nước hai trăm đồng bạc. Bọn chúng vốn muốn rằng, nhân việc khám nhà sẽ tung tin rằng đời sống gia đình của Đặng Tiểu Bình xa xỉ, hủ bại, nhưng kết quả chỉ làm chúng thất vọng cuốn xéo. Những người hôm nay có thể không hiểu được rằng, khi ấy việc lục soát nhà cửa đã đem lại cho người ta khủng hoảng tâm lý to lớn nhường nào. Mọi ngày vốn chẳng có chuyện gì, nhưng sau một lần bị lục soát nhà cửa, là có thể dẫn tới tai hoạ mất mạng như chơi. Chúng tôi, trong Cách mạng văn hoá vốn đã quá quen thuộc với việc lục soát nhà cửa, tuy chúng tôi chưa từng tham gia, và mắt cũng chưa từng trông thấy, nhưng tai đã nghe đồn thuộc rồi. Khi nhà cửa của Lưu Thiếu Kỳ bị lục soát, chúng tôi không thể không chuẩn bị gì chúng tôi đã kiểm tra lại khắp lượt trong nhà rất kỹ càng. Trong cái giờ phút không bình thường ấy, sự hoang mang trong lòng con người thật không bờ không bến, có chuyện gì, hoặc không có chuyện gì cũng cứ phải xem đi xét lại, để đề phòng bất trắc. Gia đình nhà chúng tôi vốn vô cùng giản dị, chẳng có một chút xa xỉ phẩm nào, chỉ có mấy lọ nước hoa khi mẹ tôi đi Liên xô người ta biếu. Tôi còn nhớ rằng, hai chị tôi với tôi đã đem những lọ nước hoa chưa bao giờ được mở nút, vào trong nhà xí, mở ra, đổ tuột cả vào bồn rửa mặt, vừa đổ vừa mở vòi nước, cho nước cuốn lôi sạch sẽ đi. Cũng chẳng biết rằng chúng có phản ứng hoá học ra làm sao, khi nước và nước hoa hoà với nhau, nó liền ùng ục sủi lên những đám bọt trắng, bây giờ nghĩ lại, còn tức cười vì cái sự quá ư ngu dốt của mình. Chúng tôi đổ nước hoa đi, nhưng lại không đem vứt lọ. Nếu như bọn tạo phản lôi những chiếc lọ đó ra, rồi gây sự, vì nước hoa chưa dùng hết, hay nước hoa đã dùng hết cũng vậy cả thôi, điều đó rõ ràng là “đời sống của giai cấp tư sản”, chứ là gì nữa. May mà bọn tạo phản đã ngu ngơ bỏ qua mấy chiếc lọ nước hoa vớ vẩn đó. Sau đấy nghĩ lại, thật đúng là chuyện vừa đáng cười, vừa đáng khóc. Điều đáng tiếc nhất là chúng tôi đã đem đốt hết một số ảnh mà bọn tạo phản có thể đem ra làm chứng cứ của tội lỗi, trong đó có những tấm ảnh chụp chung giữa gia đình tôi với gia đình Bành Chân, La Thuỵ Khanh, Dương Thượng Côn, còn có cả những tấm ảnh mẹ tôi chụp chơi khi Người còn trẻ đang theo học lại trường đại học Bắc Kinh. Những tấm ảnh ấy, chúng tôi đã đem gửi cho ngọn lửa, không bao giờ còn tìm lại được nữa.​

Sau lần lục soát nhà cửa ấy, bố tôi coi như “chính thức” bị đánh đổ. Ngày 29.7.1967, “quần chúng cách mạng” ở Trung Nam Hải lấy danh nghĩa là họp chi bộ, đã đấu tố bố tôi, hẹn nội nhật ba ngày phải có bản “nhận tội“, và tuyên bố: bắt đầu từ hôm đó, hạn chế mọi tự do của vợ chồng Đặng Tiểu Bình. Đối với việc phê phán đấu tố đó, bố tôi không thể nào chấp nhận được, nên lại cầm bút viết thư cho Uông Đông Hưng: “Tình hình tại hội nghị chi bộ sáng nay, chắc ông đã nắm được rồi. Ngoài ra Học viện Ngoại ngữ buộc tôi phải viết bản “nhận tội” trong vòng 30 ngày, còn chi bộ lại ra hạn kỳ trong ba ngày. Việc này nên xử lý thế nào, cần phải xin chỉ thị của Chủ tịch và Trung ương. Vì không tiện gọi điện thoại nên tôi viết một lá thư xin gặp Chủ tịch. Nhờ ông chuyển giùm”.

Trong thư gửi cho Mao Trạch Đông, bố tôi viết:

“Được gặp Chủ tịch hồi tháng năm, Chủ tịch có chỉ thị miệng cho tôi rằng, có việc gì có thể đến gặp Chủ tịch, đồng thời còn dặn dò rằng, nếu muốn gặp Chủ tịch có thể trực tiếp viết thư, nay tôi thêm một lần nữa viết thư xin gặp Chủ tịch, thực rất lấy làm áy nảy. Sáng hôm nay (29.7.1967), chi bộ của mấy đơn vị họp, cuộc họp đã tiến hành trực diện vạch trần và đấu tranh với mọi tội lỗisai lầm của tôi, cuộc họp lại ra lệnh cho tôi, trong vòng ba ngày phải viết xong bản nhận tội, phải nói thật hết, thật triệt để tội phản đảng, phản xã hội chủ nghĩa, phản tư tưởng Mao Trạch Đông, phản Chủ tịch, đồng thời đối với việc sinh hoạt của tôi cũng đưa ra một số điều cấm kỵ. Rõ ràng rằng, hiện nay trong lòng tôi hoang mang không chủ định, không biết như thế nào là tốt, cho nên tôi vô cùng khẩn thiết hy vọng được gặp mặt Chủ tịch để xin chỉ giáo. Tôi tự thấy rằng, sự thỉnh tấu này là không thoả đáng, nhưng tôi không còn cách nào khác, nên chỉ đành bày tỏ nỗi lòng với Chủ tịch. Nếu như Chủ tịch quá bận, xin cử đồng chí khác đến gặp tôi cũng được”

Mao Trạch Đông không gặp lại Đặng Tiểu Bình nữa. Đánh đổ Đặng Tiểu Bình đã đi vào tình thế không thể đảo ngược được.​
 
6. Đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Đào Chú (tiếp)

Ngày 1.8.1967, thư ký Vương Thuỵ Lâm và người bảo vệ Trương Bảo Trung của bố tôi bị điều đi. Ban công tác trung ương điều đến một “thư ký” mới. Việc đầu tiên của viên thư ký này sau khi nhận trách nhiệm là gọi mẹ tôi vào phòng làm việc của ông ta. Trên tường trong phòng có dán biểu ngữ “thật thà khoan hông, chống đối nghiêm trị”. Viên “thư ký” mới xưng xưng nghiêm khắc bảo mẹ tôi tố cáo bố tôi. Mẹ tôi đàng hoàng đáp:

- Đồng chí Đặng Tiểu Bình chưa từng bao giờ mang chuyện công tác, chuyện của tổ chức nói với người trong nhà, tôi chẳng biết gì hết. Ngay đến văn kiện, hàng ngày xem xong, việc cần giải quyết đều giải quyết xong ngay trong ngày, còn tất cả các văn kiện khác đều đưa hết đến phòng cơ yếu của Văn phòng trung ương. Muốn cần gì anh tự đến đó mà tìm.

Xem ra cũng chẳng có thể moi được gì ở mẹ tôi, cuộc “thấm vấn” như thế là kết thúc.

Sau khi lục soát nhà cửa xong, bước tiếp theo sẽ là đại hội đấu tố.

Ngày 5.8.1967, để kỷ niệm chúc mừng một năm ngày bài đại tự báo “Nã pháo vào Bộ tư lệnh” của Mao Trạch Đông ra chào đời, Tạ Phú Trị và Thích Bản Vũ thân chinh tới “chiến tuyến tóm cổ Lưu Thiếu Kỳ” để thôi thúc, xúi giục, đề nghị với phái “tạo phản”, tổ chức triệu tập một cuộc đấu tố, gây thanh thế, với chừng độ một triệu người, trên quảng trường Thiên An Môn. Trong cùng thời gian đó, tại Trung Nam Hải, nơi ở của Trung ương đảng và Quốc vụ viện, sẽ chia làm mấy địa điểm khác nhau cùng tiến hành đấu tố vợ chồng Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình và Đào Chú.

Hôm nay, hơn ba mươi năm sau, tôi vẫn ghi nhớ rõ ràng cảnh tượng ngày hôm ấy. Phái tạo phản, trước hết là thông báo sẽ đấu tố, cả gia đình tôi đều đã có chuẩn bị. Mẹ tôi dặn tất cả lũ trẻ có mặt trong nhà, bất kể là xảy ra chuyện gì, bất luận tình hình ra làm sao, đều không được ra khỏi nhà.

Bọn tạo phản ở Trung Nam Hải xông vào nhà tôi, áp giải cha mẹ tôi từ trong nhà ra, bọn tạo phản đứng chật ních trong sân bao vây cha mẹ tôi. Mấy tên tạo phản tiến lên, ấn đầu cha mẹ tôi xuống, buộc họ phải cúi đầu khom lưng nhận tội. Hàng loạt khẩu hiệu “đả đảo” vang lên đến inh tai nhức óc, bọn tạo phản hùng hùng hổ hổ, gào gào thét thét đấu tố một hồi, rồi sau đó lại năm mồm bảy miệng, nhốn nháo ồn ào chất vấn. Tôi còn ghi nhớ được rõ ràng tiếng gào thét chói tai, eo éo, rất đặc biệt của một nữ tạo phản của tổ thư ký Ban công tác trung ương mới điều từ Thượng Hải lên. Đôi kính của mẹ tôi bị bọn tạo phản giật đi mất, bà cúi đầu định nhìn bố tôi nhưng chẳng nhìn được gì. Bố tôi điếc, gò lưng nghe những tiếng gào thét nhưng cũng chẳng nghe thấy gì hết, vì thế mà cũng chẳng có lời đáp lại Đến khi ông cất tiếng, nhưng chưa nói hết một câu, đã bị cắt ngang một cách thô bạo. Bọn tạo phản đã cho mắc một chiếc loa to ở sân, truyền cuộc đấu tố cùng lúc ở quảng trường Thiên An Môn vào cho ông bà cùng nghe.

Mẹ tôi cấm không cho chúng tôi ra ngoài, tôi và hai chị tôi ở trong nhà, kéo kín rèm cửa che khuất. Hai chị nghe cuộc đấu tố gào thét điên cuồng, sợ đến thót tim lên cổ, hai chị chẳng đám bất nhẫn nhìn cảnh thê thảm của cha mẹ bị đấu tố, còn tôi, tôi cứ trèo lên bàn, nhìn qua khe rèm ra ngoài đứng xem. Tôi nói, tôi phải xem, phải xem cho đến cùng, tôi muốn ghi nhớ tất cả những cái đó vào thật sâu trong tâm khảm!

Sau khi đấu tố kết thúc, mẹ tôi dìu bố tôi vào trong nhà, nhìn khuôn mặt trắng bợt bạt của bố tôi, tôi vội vã đi rót nước cho ông, rồi lại dìu tiếp ông vào giường nghỉ. Hôm ấy đã kết thúc trong sự nhốn nháo hỗn loạn như vậy. Sau đó, chúng tôi được nghe tin, trong cuộc đấu tố Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình và Đào Chú sau này, thì cuộc đấu tố Đặng Tiểu Bình là “văn minh” hơn cả. Đối với Lưu Thiếu Kỳ và Đào Chú còn thảm khốc hơn nhiều, đặc biệt là Lưu Thiếu Kỳ, họ còn hành hạ ông cả về thể xác nữa.

Sau khi lục soát, đấu tố, bố tôi coi như chính thức bị đánh đổ đến triệt để.

Trong nhà tôi ở Trung Nam Hải, cha mẹ tôi đã rơi vào tình trạng giam lỏng. Lũ con cái chúng tôi, tuy vẫn còn được cư ngụ ở trong nhà, nhưng bị cấm ra vào phòng cha mẹ, song bọn tạo phản lại không “hạ trại” ở sân, nên chúng tôi vẫn cứ lén lút ra vào phòng bố mẹ tôi. Sau khi bị đấu tố, bố tôi trầm lặng, không nói, và cũng chẳng thấy cười nhưng cũng chẳng để lộ ra những bức xúc hoặc tuyệt vọng quá đáng nào. ảnh hưởng từ sự trấn tĩnh của bố tôi, tình hình trong cả gia đình tôi cũng không bị sa sút nặng nề, chỉ có ít đi ra ngoài hơn, cố hết sức ngồi lỳ trong nhà. Cần nhớ một điều rằng, trong Cách mạng văn hoá, ngoài xã hội, trong số những người mà gia đình tôi quen biết, cảnh ngộ của họ, tình cảnh của họ còn thê thảm, be bét hơn chúng tôi nhiều, mà con số đó rất lớn. Cũng thật kỳ lạ, so sánh như thế, chúng tôi cũng chẳng thấy vui vẻ gì. Trong thời gian ấy, trong khi gia đình chúng tôi khó khăn hoạn nạn nhất, có một số việc khiến cho cả gia đình tôi vĩnh viễn không quên. Nhà tôi ở trong một ngõ nhỏ ngay bên cạnh Hoài Nhân Đường, từ nam tới bắc, trước sau có tất cả bốn khu nhà. Khu một là Lý Phú Xuân, khu hai là Đàm Chấn Lâm, khu ba là Đặng Tiểu Bình, khu bốn là Trần Nghị. Đó là bốn hộ gia đình của bốn phó thủ tướng, những người lớn, đều là lão chiến hữu, lão đồng chí, quan hệ rất thắm thiết. Lũ trẻ con chúng tôi cũng cùng nhớn nhao lên từ đó, chơi bời đùa nghịch với nhau như anh chị em ruột thịt. Sau khi phát động Cách mạng văn hoá, chỗ nào cũng hỗn độn những biểu ngữ cùng khẩu hiệu, nhà nào nhà nấy vội vã bận bịu ứng phó với phong trào, lo lấy thân còn chưa xong, nên sau khi bố tôi bị đánh đổ, chúng tôi càng không muốn ra khỏi nhà, chẳng muốn gặp ai. Có một hôm chị cả Đặng Lâm và tôi từ nhà đi ra đến đầu ngõ, nhìn thấy bác Trần Nghị có bảo vệ đi kèm, đang từ phía ngoài đi vào. Nhìn khuôn mặt sa sầm nghiêm túc của bác, biết ngay rằng nhất định là bác bị bức phải đi đọc đại tự báo. Đã lâu không gặp, nay thấy bác gầy còm, nụ cười hớn hở mà chúng tôi đã quen thuộc từ lấm bé của bác nay đã biến mất, chỉ riêng có lấm lưng bác là vẫn thẳng như xưa. Chúng tôi biết rằng trong dòng “nước ngược tháng hai”, bác Trần Nghị đã bị phê phán. Để khỏi làm liên lụy tới bác, chúng tôi đã tự động đứng lánh vào một bên tường. Không ngờ bác đã nhìn thấy chúng tôi, sắc mặt bác thay đổi, cặp lông mày hơi dưới lên, từ xa bác đã bước vội mấy bước tới nơi.

Bác gọi tên chúng tôi, và đột nhiên lưng hơi còng xuống, như người cúi xuống vái chào, bác hỏi: “Khoẻ cả chứ?” Chúng tôi hơi lặng người đi, nhưng rồi cũng phản ứng lại kịp, biết rằng bác đang hỏi thăm ai, tim nóng ran, không nên nổi giọt lệ tràn ra khoé mắt. Chúng tôi vội vã đáp: “Khoẻ cả ạ”. Bác nói liền mấy tiếng: “Thế là tốt, thế là tốt!”. Nói xong nét mặt bác lại sa sầm xuống, chậm rãi bước từng bước đi sâu vào trong ngõ. Chuyện đó, đã làm chúng tôi xúc động không biết bao nhiêu ngày, nhưng dù thế nào chăng nữa cũng không thể ngờ được rằng. Đó là lần cuối cùng chúng tôi được gặp mặt bác Trần Nghị. Lại có một lần, bác cần vụ Ngô Hồng Tuấn từ ngoài trở về đưa một bao thuốc lá thơm cho mẹ tôi, bác nói, ngoài ngõ gặp Tiểu Khổng bảo vệ của ông Lý Phú Xuân, Tiểu Khổng nhìn xung quanh thấy không có ai, len lén nhét cho ông bao thuốc lá, nói nhỏ:

- Đây là của đồng chí Lý Phú Xuân gửi biếu đồng chí Đặng Tiểu Bình.

Bác Ngô Hồng Tuấn đứng ngây nhìn Tiểu Khổng đi khỏi đó, một lúc lâu mới định thần lại được, vội vàng rảo cẳng về nhà. Cha mẹ tôi nhìn bao thuốc lá thơm, lâu lắm chẳng ai nói câu nào. Song trong lòng ông bà thì đã rõ, trong cái giờ phút khốn khổ khắc nghiệt này, những lão đồng chí, lão chiến hữu vẫn nhớ tới ông bà. Hơn một năm trước Đặng Tiểu Bình gửi cam biếu Bành Chân, hơn một năm sau, Lý Phú Xuân gửi thuốc lá biếu Đặng Tiểu Bình. Thực sự đổi thay, thật đáng để lòng người cảm khái.

Tình hình đó kéo dài được chừng hơn một tháng. Ngày 13.9.1967, bác cần vụ Ngô Hồng Tuấn đột nhiên chạy đến bảo chúng tôi: đám con cái Lưu Thiếu Kỳ bị đuổi ra khỏi nhà rồi, đuổi ra khỏi Trung Nam Hải đấy! Trong ba đứa con của Lưu Thiếu Kỳ mấy cậu lớn lớn học trung học, mỗi cậu ôm một bó chăn đệm, với một chiếc xe đạp, bị cưỡng bức, đưa từng người về trường trung học của mình. Đứa bé nhất đang học tiểu học giao cho cô bảo mẫu rồi cũng bị cưỡng bức đuổi ra khỏi cửa. Bác Ngô Hồng Tuấn cuống quít bảo chúng tôi, các cô cũng phải chuẩn bị đi thôi.

Lúc đó trong nhà chỉ có Đặng Nam với tôi. Chúng tôi bàn với mẹ tôi, bất kể ra làm sao, nhà mình quyết không để bị đuổi ra khỏi nhà như con bác Lưu Thiếu Kỳ, nếu có phải đi, cũng cần có chỗ mới đi. Trong nhà tôi còn có bà tôi, nếu như chúng tôi bị tống về trường học, thì bà tôi sẽ đi đâu. Bà tôi đã ở với chúng tôi mười mấy năm kể từ ngày giải phóng, tuổi cao như thế, không thể để bà tôi không có chỗ trú chân. Con cái bác Lưu Thiếu Kỳ còn bé hơn chúng tôi, mà đã bị họ tống cổ đi, thì thật thê thảm quá. Chúng tôi sẽ tuyệt không thể như thế được, số phận của chúng tôi tuyệt không thể ai muốn sắp đặt như thế nào thì sắp đặt. Sau khi bàn bạc xong, trong lòng chúng tôi cũng đã quyết một bề.

Chả bao lâu sau, quả nhiên, người của phái tạo phản và cả của Ban công tác trung ương tới thật, hung hăng thét lác, ra lệnh cho chúng tôi về trường học, ra lệnh cho bà tôi phải về quê cũ, và chỉ được phép trong vòng hai giờ đồng sau là phải cút khỏi Trung Nam Hải. Cha mẹ tôi bị giam lỏng không thể ló mặt ra được, hai chị em tôi bắt đầu tranh cãi với bọn tạo phản, bảo rằng đi, cũng được nhưng bắt buộc phải có cho chúng tôi một chỗ ở khá. Chúng tôi kiên quyết không về trường học, bà tôi cũng không thề về quê cũ được, ở đấy không còn ai là người thân cả, lẽ nào để bà chúng tôi đi chuốc lấy cái chết. Trừ khi các người lấy thừng trói chúng tôi lại mang đi, nếu không chúng tôi quyết không đi khỏi đây! Bọn tạo phản gầm lên, chúng tôi cũng gầm lên, bọn tạo phản hùng hổ, chúng tôi cũng chẳng chịu kém nước. Chúng tôi đã quyết, cũng thét lác với bọn chúng, nhưng không làm sao giữ nổi cho những giọt nước mắt khỏi tràn ra trên gò má. Bọn tạo phản ấy thấy chúng tôi làm dữ, nên chúng đành tạm cuốn xéo. Bọn chúng đi rồi, chúng tôi oà lên khóc to. Kể từ khi cha mẹ tôi bị phê phán mãi cho đến hôm. nay, tất cả nỗi oan khuất, tất cả nỗi phẫn nộ, cộng với nỗi bi thương sắp phải cùng cha mẹ phân ly, như một cơn hồng thuỷ, không thể ngăn cản nổi, ào ạt tuôn ra.

Biết không tránh khỏi số phận bị đuổi đi, chúng tôi tìm chị cả từ trường học về, cùng thu xếp quần áo, đồ đạc, mẹ tôi từ trong phòng cũng vội vã lục lọi. Chúng tôi tìm được một góc khuất vụng trộm “giao tiếp” với nhau, mẹ tôi lục được bộ quân áo nào, liền đưa ngay cho chúng tôi bộ đó, mẹ và bố tôi muốn sao cho chúng tôi khuân hết được đồ đạc mang đi.​
 
6. Đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Đào Chú (tiếp)

Cuối cùng, chúng tôi đã thắng lợi. Mấy hôm sau, bọn tạo phản báo cho chúng tôi biết, chúng đã tìm được cho chúng tôi hai gian nhà ở bên ngoài Trung Nam Hải, nhưng trong vòng hai tiếng đồng hô là phải “cút khỏi” đây ngay. Trước khi ra đi, chúng tôi thay nhau chạy tới căn phòng ở phía bắc, nơi cha mẹ tôi đang ở, lần lượt từ biệt cha mẹ. Nhân lúc chúng tôi ra đi, mẹ tội vội vã mang một số đồ dùng trong phòng, tống ra cho chúng tôi. Mắt mẹ tôi đẫm lệ, tiếp nhận những vật từ bà, tôi thấy lay bà nóng ran. Bố tôi đang ở hành lang phía sau nhà, tôi chạy tới ôm hôn ông vội vã, rồi lại vội vàng bỏ chạy. Bố tôi là người yêu mến chúng tôi nhất, tôi không dám nhìn lại bố tôi. Tôi biết rằng, xưa nay ông là con người kiên cường, gặp hiểm nguy không hề kinh hãi, vui buồn không để lộ ra ngoài, nay phái phân ly với những đứa con vốn sớm tối bên Người, mà có thể rằng, kể từ nay sẽ không còn gặp lại nữa, đối với ông mà nói, đây là nỗi đau thương lớn nhất. Những hiểm nguy ác độc mà ông gặp phải trên trường chính trị cũng không quật ngã nổi ông, nay với người thân phải sinh ly tử biệt, lại là một nỗi đau khó chịu đựng nổi.

Ngày thu tháng 9.1967 ấy, chúng tôi biệt ly cha mẹ, rời khỏi gia đình nơi chúng tôi đã sống 10 năm trong Trung Nam Hải.

Kể từ khi ấy, cha mẹ chúng tôi bắt đầu sống một kiếp sống tù đày, hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài, trong khi chúng tôi, những đứa con cũng bắt đầu bước vào con dường sống hoàn toàn khác với ngày xưa. Chúng tôi biết rõ ràng, trước mắt chúng tôi là con đường gập ghềnh, chúng tôi sẽ phải đối diện với cõi nhân sinh mênh mang bên ngoài Trung Nam Hải, hải cảng tránh gió yên bình của chúng tôi ngày trước. Cuộc sống vật lộn gian nan ấy, chúng tôi phải đeo đẳng từng giờ từng phút, không chỗ né tránh, không nơi ẩn náu.

Hai năm sau đó hai kẻ “theo tư bản” to đầu nhất là Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình vẫn bị giam cầm trong nhà riêng của mình ở Trung Nam Hải. Do sự xử lý của Mao Trạch Đông với hai người khác nhau, nên hoàn cảnh của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình cũng chẳng giống nhau.

Lưu Thiếu Kỳ bị giam hãm trong nhà riêng của mình ở Trung Nam Hải, vợ ông, bà Vương Quang Mỹ bị đưa hẳn vào ngục thất, những nhân viên công tác quanh người được đổi thành nhân viên quán giáo. Lưu Thiếu Kỳ, một vị Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, cho đến nay vẫn được hiến pháp công nhận, bệnh tật đầy người, mà vẫn bị trăm chiều hành hạ, cuối cùng bị đưa đi đầy đọa, chết thảm ở phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam.

Còn Đặng Tiểu Bình tuy cũng bị giam cầm, nhưng trước sau ông chưa bị tách ra khỏi vợ mình. Cần biết rằng, trong những giây phút gian nan, được sống bên cạnh người thân là điều vô cùng quan trọng. Chỉ cần hai ông bà vẫn được sống bên nhau thì dù có bị đánh đổ bị phê phán hung tợn hơn nữa, mãnh liệt hơn nữa, cũng vẫn có thể dựa dẫm vào nhau, tìm được nguồn an ủi.

Thư ký của bố tôi đã bị điều đi từ lâu rồi, thay vào đó là một người không biết mang cấp hàm gì, nhưng thực tế đây cũng chỉ là một người quản giáo. Nhân viên công tác trong nhà tôi vốn không nhiều, nhân viên và lái xe cũng đã được điều đi, nhưng ông đầu bếp Dương Duy Nghĩa và người cần vụ Ngô Hồng Tuấn vẫn còn được giữ lại. Hai người ấy làm việc trong nhà chúng tôi cũng đã hơn chục năm. Tuy đối với kẻ “đi theo tư bản” cũng phái phê phán, cũng phải phân rõ giới tuyến, nhưng đối với cả gia đình tôi vẫn còn giữ được rất nhiều tình cảm. Còn có những người đó, thứ nhất là bữa ăn của cha mẹ tôi vẫn có người trông nom, thứ hai là trong nhà ngoài sân cũng chẳng đến nỗi hiu quạnh quá. Đặc biệt là tôi muốn nhắc tới bác Ngô Hồng Tuấn, bác từ quê hương Tứ Xuyên của chúng tôi tới, vốn chẳng có văn hoá, và cũng chẳng hiểu chính trị là gì, nhưng trong phong trào Cách mạng văn hoá này, ngay một người như bác cũng hiểu biết được nhiều về chính trị. Có nhiều khi, những điều bác nghe được hoặc những việc mà bác cho là quan trọng, bao giờ cũng nhân lúc vắng người, bác nói vụng lại với mẹ tôi ở lối đi sau nhà, khiến cho cha mẹ tôi phải sống trong hoàn cảnh hoàn toàn cầm cố cũng biết được một vài tin tức.

Trong lúc bị giam hãm, cha mẹ tôi vẫn phải đối mặt với những cuộc phê phán mình điên cuồng, có những lúc vẫn bị tổ chức phái tạo phản bắt buộc phải viết những tài liệu chứng minh, tội lỗi của người khác theo yêu câu của họ. Khi thấy những đồng chí của mình, chiến hữu của mình bị oan khuất, vu cáo, bố tôi bất bình nhưng đành chịu bó tay. Ông chỉ còn cách dùng những lời nói thẳng trong tâm can mình để chứng minh sự trong sạch của đồng chí mình. Ba tên tạo phản ở Bộ Y tế yêu cầu bố tôi phải khai báo, tại sao lại lại trọng dụng bộ trưởng Bộ Y tế, Tiền Tín Trung, bị đánh đổ.

Vào ngày 3.11.1967, bố tôi viết rằng:

“Quan hệ công tác giữa tôi và đồng chí Tiền Tín Trung đã có từ rất lâu, hồi ở Dã chiến quân thứ 2. Chúng tôi, chủ yếu là tôi, rất tín nhiệm đồng chí ấy. Tôi và nhiều đồng chí phụ trách khác từ lâu vẫn cho rằng, đồng chí ấy là người có đủ năng lực để phụ trách Bộ Y tê. Lúc bấy giờ một bác sĩ mổ ngoại khoa như đồng chí ấy thật hiếm có. Tinh thần công tác, đặc biệt là tinh thần cứu thương ở chiến trường lúc nào cũng rất cố gắng. Cho nên ngày xưa, cách nhìn tổng quát của tôi về đồng chí ấy là: nhũng khuyết điểm lặt vặt thì có nhiều, nhưng về tổng thể là rất tốt, có nhiều thành tích trong chiến tranh. Tiền Tín Trung làm bộ trưởng Bộ Y tế là do Thủ tướng đề xuất, bàn bạc, tôi tán thành việc đồng chí Tiến Tín Trung làm bộ trưởng Bộ Y tế, giữa tôi và An Tứ Văn chẳng có âm mưu nào cả”.

Bố tôi đã viết tài liệu này đề bày tỏ sự đồng tình và ủng hộ đối với những đồng chí bị bức hại vu cáo. Trong những năm tháng ấy, phàm là những người bị phê phán, đánh đổ, đều bị cưỡng chế cải tạo lao động mang tính trừng phạt, có những tên tạo phản đã dùng tới kiểu cưỡng bức lao động nặng để đạt được mục đích của chúng là hãm hại, hành hạ, dày vò con người. Bố tôi bị giam giữ trong chính ngôi nhà của mình, muốn lao động cải tạo cũng chẳng có việc gì mà cải tạo. Ban đầu, họ bắt ông bà tự nấu nướng lấy, nhưng mới chỉ được vài ngày là đã bị cấm không cho làm nữa. Có thể là do bọn tạo phản đã thiển nghĩ ra rằng, không thể để cho tên đi theo “tư bản” to đầu này, tiếp xúc với những vũ khí sắc bén như các loại dao chẳng hạn. Sau đó họ hạ lệnh cho mẹ tôi hàng ngày phải quét sân, quét nhà. Mới đầu chỉ có một mình mẹ tôi cầm chổi, tiếp theo, bố tôi cũng tự nguyện cầm lấy chổi, cùng quét với mẹ tôi. Trong hai năm, dù gió thổi mưa bay, dù trời rét trời nắng, hai ông bà cũng không bỏ việc, cứ từng nhát, từng nhát, chu đáo cẩn thận quét, trong cuộc sống giam cầm, đơn điệu và cô đơn, có một việc lao động, bỗng trở thành một nhu cầu của cha mẹ tôi, trở thành một nội dung sinh hoạt chủ yếu. Nhưng quét nhà quét sân, dù có cẩn thận chu đáo nhường nào cũng chỉ có ngần ấy công việc, ngoài việc đó ra, cha mẹ tôi chỉ còn biết ngồi lỳ trong nhà, đọc sách, đọc báo, nghe phát thanh, hoặc ngồi âm thầm lặng lẽ.

Để tiết kiệm, trong cả hai năm ấy, ông bà không mua sắm thêm bất cứ thứ quần áo nào. Bố tôi có một chiếc áo len casơmia, vốn là từ hồi Thượng Hải mới giải phóng, đồng chí Lưu Hiểu (đã từng là thứ trưởng Bộ Ngoại giao) hoạt động bí mật ở đó mua cho. Ông mặc chiếc áo đã hai chục năm khuỷu tay áo đã bị mài rách, biết làm sao đây. Mẹ tôi biết đan len, bà tìm những sợi len kha khá đồng màu, tách từ sợi to ra thành những sợi nhỏ tương đương với sợi len casơmia, xâu vào chân kim, rồi mạng vá theo kiểu người ta đan len. Một cái lỗ rách to như thế, mà khi vá víu xong, chẳng kém lúc mới là bao nhiêu, những người không biết, chỉ nhìn thoáng qua sẽ không nhận ra đó là miếng vá. Còn những chỗ gấu nẹp tuột rách, mẹ tôi cũng vá víu lại rất cẩn thận. Chiếc áo len màu ghi vừa cũ vừa rách ấy đã được mẹ tôi khéo léo mạng vá lại trở nên như mới. Sau này một thời gian rất dài, bố tôi vẫn mặc chiếc áo len ấy, ngay cả khi có áo mới, ông cũng không chịu đổi. Điều này rõ ràng không phải là sự tiết kiệm rồi, mà nên hiểu rằng, mỗi đường kim mũi chỉ trên tấm áo ấy, nó đang gìn giữ ghi nhớ những ngày ngày đêm đêm bị giam cầm cấm cố.

Đến đêm, ngoài sân tối đèn lặng lẽ, trong phòng cũng trống rỗng lặng thinh, chỉ có một chiếc đèn con mờ mờ ảo âo. Bố tôi chẳng nói năng gì, chí lặng lẽ châm những điều thuốc lá buồn. Mẹ tôi ngồi nhìn bố tôi hút, rồi về sau bà cũng bắt đầu hút theo. Bố tôi biết mẹ tôi mắc bệnh tim mạch, khuyên bà không nên hút, ông nói:

- Bây giờ xem ra, bà đã nghiện nặng hơn tôi rồi, sau này tính sao?

Mẹ tôi đáp:

- Tôi hút thuốc chỉ vì nhớ con quá. Chỉ cần gặp mặt chúng nó, là tôi bỏ thuốc ngay lập tức.

Tuy đời sống giam cầm có gian nan thật, nhưng có điều may rằng, cha mẹ tôi không được tính như những người “đi theo tư bảnn” khác, nên nhân thân không bị bức hạ, hành hạ đến thê thảm như những người khác. Bố tôi tuy không phải chịu sự ngược đãi hành hạ như những người “đi theo tư bản” khác, cũng chẳng phải may mắn được tha, mà cần nhớ tới hai nguyên nhân đã nêu ở phần trên, đó là ý kiến của Mao Trạch Đông, và cũng có thể nói rằng đó là sự sắp xếp chính trị của Mao Trạch Đông.

Đối với Đặng Tiểu Bình, đồng thời với việc phê phán, đánh đổ, Mao Trạch Đông vẫn cho rằng, về mặt chính trị, Đặng Tiểu Bình còn được bảo lưu, và về mặt nhân thân vẫn được bảo hộ. Việc giám quản Đặng Tiểu Bình, Mao Trạch Đông chí giao cho Uông Đông Hưng, người đã được ông ta tín nhiệm, và chưa từng cho phép Lâm Bưu hoặc Ban Cách mạng văn hoá trung ương nhúng tay vào. Đến ngày 5.11.1967, khi Mao Trạch Đông nói chuyện với các thành viên Ban cách mạng văn hoá về vấn đề đại hội 9 và chỉnh đảng, tuy ông ta vẫn gộp Đặng Tiểu Bình và Lưu Thiếu Kỳ vào làm một để phê phán sai lầm, nhưng ông ta nói:

- Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình hợp tác mưu gian với nhau, nên quyết nghị của “đại hội 8” đã không thông qua chủ tịch đoàn của đại hội, và cũng chẳng hỏi han ý kiến của tôi đã cho thông qua rồi. Vừa thông qua xong, tôi liền phản đối. Năm 1963 lại làm việc “Mười điều”, rồi sau đó ba tháng lại triệu tập họp làm tiếp “Sau mười điều” cũng chẳng thèm xin ý kiến tôi, mà tôi cũng chẳng đến họp. Cần phải phê phán Đặng Tiểu Bình, đề nghị Quân uỷ trung ương chuẩn bị bài vở”.

Nhưng đồng thời, ông ta lại nói:

- Theo ý kiến của tôi, cần phải có sự phân biệt với Lưu Thiếu Kỳ, làm thế nào để tách Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình ra làm hai.

Tách đôi Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, tuy chỉ là một câu nói, nhưng hàm ý của nó rất sâu xa. Về mặt nổi, đó là quyết định bước đường sống và chết lặng cõi đời này của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, còn về bề sâu, nó có liên đới tới vấn đề khác, không những đã nhiều mà còn phức tạp. Mao Trạch Đông dựng Lâm Bưu lên làm người kế cận của mình, trong những trường hợp công khai, Lâm Bưu đều từng bước bám sát gót ông ta, nhưng trong chỗ riêng tư từ xưa tới nay Mao Trạch Đông chưa hề chuyện trò thân mật với Lâm Bưu bao giờ. Tại sao vậy?. Mao Trạch Đông biết rõ rằng Lâm Bưu không chấp nhận Đặng Tiểu Bình, mà Mao Trạch Đông lại có ý giữ Đặng Tiểu Bình lại. Tại sao vậy?. Tách đôi Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình ra, lẽ nào chỉ vì vấn đề của Đặng Tiểu Bình không lớn bằng của Lưu Thiếu Kỳ? Lẽ nào vào cái thời điểm đó, cái thời điểm Lâm Bưu “đỏ” nhất, thì Mao Trạch Đông đã nghĩ tới những gì, hoặc đã chuẩn bị những gì? Lòng dạ Mao Trạch đông đúng là sâu như biển, sâu khó có thể đo được.

Theo lời dự đoán của Mao Trạch Đông, năm 1967 sẽ là năm mà cuộc đấu tranh giai cấp triển khai ra toàn quốc. Những sự kiện nảy sinh ra trong năm đó rõ ràng là vừa nhiều, vừa nhanh, vừa hỗn loạn. Tiếp tục với sự kiện “tiếm quyền tháng giêng” “dòng nước ngược tháng hai”, tháng ba đã nổi lên phong trào “bắt phản động” trong phạm vi toàn quốc, không biết bao nhiều người vô tội bị định tội, bị vu cáo. Tháng tư, cuộc phê phán Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, đặc biệt là đối với Lưu Thiếu Kỳ trên báo chí được đại đại nâng cấp, tháng sáu, tà khí đả đảo, đánh đập, bắn giết, lục soát nhấn chìm toàn quốc, khiến cho trung ương không thể không tung ra những chỉ thị điều chỉnh. Tháng bảy, Lâm Bưu đề xuất việc bắt bớ “một nhóm nhỏ trung quân đội”, rất nhiều cán bộ trong quân đội bị đánh đổ. Vẫn trong tháng ấy, Giang Thanh đề xuất “văn công võ vệ” (tấn công bằng văn, bảo vệ bằng võ), khiến những cuộc giao đấu trên toàn quốc tăng lên khủng khiếp, chuyện đầu rơi máu chảy với quy mô lớn liên tục xảy ra. Tháng tám, với sự xúi giục, kích động của Ban Cách mạng văn hoá trung ương, đã đẩy bọn tạo phản hoả thiêu cơ quan Đại biện của nước Anh tại Trung Hoa, và cả loạt những sự kiện có liên quan tới nước ngoài.

Cho đến khi ấy mà nói, trên dưới, khắp toàn quốc, hàng loạt cán bộ cao cấp kể cả quân đội đã bị hạ bệ, cơ cấu chính quyền, đảng rơi vào tình trạng tê liệt, tổ chức của các phái tạo phản đấu đá lẫn nhau, không ngừng nổ ra những cuộc chiến đại quy mô đẫm máu, sản xuất công nông nghiệp bị phá hoại năng nề, sản xuất liên tục sút giảm, toàn quốc rơi nào tình trạng loạn lạc. và một cuộc nội chiến hỗ loạn toàn diện.

Mao Trạch Đông từ tháng bẩy đến tháng chín đi thị sát Hoa Bắc, Trung Nam và Hoa Đông. Sau khi đi tuần du, ông ta không hề cảm thấy sự nghiêm trọng của tình thế, ngược lại, ông ta còn nói:

- Tình hình Đại cách mạng văn hoá của giai cấp vô sản trên toàn quốc tốt to chứ không phải tốt nhỏ đâu, toàn bộ tình hình so với bất cứ thời gian nào trước kia, đều tốt.... Một số địa phương vào giai đoạn trước tưởng như rất loạn, thực ra đó chỉ là loạn với quân địch thôi, nó tôi luyện được quần chúng.

Chính con mắt của Mao Trạch Đông nhìn thấy lời tiên tri của ông ta đã được thực hiện, đã chính thức nhìn thấy “thiên hạ đại loạn”. Thiên hạ đại loạn, thì đúng là loạn rồi, đã loạn thì phải loạn đến triệt để, loạn đến lệch đất nghiêng trời.

Mao Trạch Đông đã từng mổ xẻ mình:

Trên con người tôi, có một phần là hổ khí, hổ là chính, và cũng có một ít khỉ khí, khỉ là phụ.

Hổ khí là khí chất của bậc đế vương, là khí chất của bậc đế bá, khỉ khí là khí chất của chiến tranh, khí chất của tạo phản. Hai cái thứ khí chất đó tập trung trên một con người Mao Trạch Đông, hai khí chất gốc ấy đã dung hợp một cách cực kỳ điển hình với nhau để nhạo nặn ra một tính cách song trùng. Ông ta là vị chúa tể, đồng thời lại là kẻ tạo phản. Với cương vị chúa tể, ông ta phát động phong trào tạo phản, rồi lại dùng cương vị kẻ tạo phản để vươn tới địa vị một chúa tể mới, có thể sử dụng cái tính cách và phương thức không bình thường, không giống nhau đó đề kiến tạo và truy tìm lý tưởng “cách mạng” một cách không biết một mỏi.

Mao Trạch Đông là một vĩ nhân, là một kẻ mạnh vĩnh viễn. Những suy nghĩ, những việc làm của ông ta, người bình thường không sao mà bàn luận được. Có thể, đây cũng lại là một trong những nguyên nhân làm cho lý tưởng và hiện thực của ông ta luôn luôn cách xa nhau một trời một vực.​
 
Sửa lần cuối:
7. Một lá thuyền đơn trong sóng cả

Trong đám đông chúng sinh bị Cách mạng văn hoá quăng quật xô đẩy, số phận của gia đình tôi cũng chẳng phải là thê thảm nhất. Cha mẹ tôi, tạm thời không tính, bởi vì ông bà là những nhân vật chính trị, là vai chính trên vũ đài chính trị nên sự chìm nổi trên chính trường vốn đã là “cái mệnh” của ông bà rồi. Nhưng, đối với chúng tôi, là những đứa bé con mới mười mấy, đôi mươi tuổi mà nói, chúng tôi đã bị rơi đột ngột từ tuổi học trò ngây thơ trong trắng xuống vực sâu vạn trượng, bị đấu tố bôi bẩn, thì quả thật là một sự thử thách quá gian nan trong cuộc đời.

Sau khi bị đuổi ra khỏi Trung Nam Hải, Văn phòng trung ương cũng đã tìm được cho chúng tôi một chỗ ở trong một ngõ nhỏ tên là Phương Hồ Trai, nằm bên ngoài cửa Tuyên Vũ. Đó là một khu nhà, ngoài một số nhà một tầng đơn giản, còn có một dãy nhà hai tầng nho nhỏ nghe nói đã được xây dựng từ thời Nhật - Nguỵ. Chúng tôi được nhận hai phòng nơi tầng một ở trong cùng dãy nhà. Những người ở trong khu nhà này đều là công nhân viên làm việc trong Trung Nam Hải và một số gia đình cán bộ mắc “sai lầm” trong Văn phòng trung ương. Sau khi chúng tôi dọn đến đó, bà tôi và em trai Phi Phi ở một phòng, còn một phòng dành cho ba chị em tôi và một người chị họ đang theo học ở Bắc Kinh cùng ở. Ngôi nhà lầu này đã rách nát lắm, ván sàn cứ vang lên cót két, cót két mỗi khi đặt chân lên. Phòng chúng tôi ở chỉ cách phòng bên cạnh có một bức vách gỗ: bên kia chỉ ho một tiếng là bên này đã nghe thấy hết. Ngoài sân có một vòi nước máy, có thể lấy nước dùng từ đó, nhà xí nằm ở ngoài ngõ bên ngoài khu nhà. Trên lối đi, chúng tôi đặt một cái bếp lò mới mua, dùng dăm bào khói mù mịt để mồi than, bà tôi nấu nướng bữa cơm đầu tiên cho chúng tôi ở nhà mới.

Sau khi thu xếp nhà cửa xong, chúng tôi cảm thấy vô cùng may mắn. May vì chúng tôi không bị đuổi tới trường như đám con Lưu Thiếu Kỳ. May vì chúng tôi còn có một chỗ gọi là để an thân, may vì chúng tôi còn có một nhà gọi là để đi về, nhưng có được như thế cũng chẳng đề dàng, mà phải đấu tranh mới có được. Khi mọi việc đã ổn thoả, những đêm vắng về, tĩnh lặng, chúng tôi nằn chen nhau trên những tấm ván gỗ kê làm giường, trằn trọc không sao ngủ được. Chúng tôi nhớ cha, chúng tôi nhớ mẹ. Chúng tôi biết rằng, cũng vào đêm nay, giờ này chắc cha mẹ tôi cũng chẳng sao chợp mắt được, nhất định cũng đang thương nhớ chúng tôi. Muốn nói thế nào thì nói, Trung Nam Hải vẫn là “chốn đào nguyên”. Đến Phương Hồ Trai mới thực sự là bước vào xã hội. Trong khu nhà, toàn là những người làm việc ở Văn phòng trung ương cư trú cùng với gia đình họ, hình như họ cũng đã được cấp trên dặn dò thế nào đấy, nên họ cư xử với chúng tôi cũng chẳng đến nỗi nào. Khi chúng tôi mới dọn tới, nhiều người đến hỏi xem chúng tôi có thiếu thốn gì không, hoặc mang cho chúng tôi nắm hành, chén xì dầu...v.v. Chúng tôi dọn nhà từ Trung Nam Hải tới đây, xem ra có vẻ nhếch nhác, nghèo hèn, nhưng những người công nhân viên cùng gia đình họ cũng đã sống như thế ở đây từ lâu rồi và chưa hề thấy nó kém cỏi.

Sau khi tới đây, chúng tôi mới biết thế nào là đời sống của trăm họ. Thời đó, lương bổng của công nhân viên rất thấp, thấp nhất một tháng chỉ có 20 đồng bạc, nhiều cũng chí ngót nghét bốn chục đồng, mà phải nuôi sống cả ba đời già trẻ lớn bé. Nhiều công nhân viên chức phải sống nhờ vào việc làm thêm, như dán hộp giấy, dán hộp diêm. Có nhiều gia đình dọn một cái giường cho ra cái giường cũng chả có, giường chỉ là hai chiếc ghế dài, kê những tấm gỗ lên đó, tối cả nhà ngủ chung, cơm nước cũng chỉ là những nắm mì hấp ăn với dưa muối, đĩa mì xào với mấy sợi thịt đã gọi là của ngon vật lạ. Quần áo cũng vá chằng vá đụp, nhất là lũ trẻ con có cái gì khoác lên người cho ấm được là khoác cái đó. Nhìn những cảnh đó, chúng tôi còn kêu ca, oán thán cái nỗi gì, còn phàn nàn, bực bội cái nỗi gì nữa.

Chúng tôi học sống cuộc sống bình dân của những người công nhân viên chức bình thường ở đây. Chúng tôi ra sân xách nước, vào nhà xí công cộng ở ngoài phố, cầm tem phiếu đi mua lương thực ở cửa hàng gạo, cầm sổ đi mua than ở chỗ bán than, ngày lễ ngày tết cũng đi xếp hàng mua mộc nhĩ, rau kim trâm, ngũ vị hương, mỗi tuần một lần dậy từ bốn năm giờ sáng ra chợ rau xếp hàng mua đậu phụ. Khi cửa hàng thực phẩm có bán xương xẩu, đầu chối, hô một tiếng, cả khu nhà nườm nượp kéo nhau đi cùng với rổ rá. Chúng tôi đã làm quen được với cuộc sống ấy rất nhanh, và sống chung với nó. Con người là như thế, chỉ cần trong đầu, trong dạ chịu đi theo mình, thì rồi ngày tháng nào cũng qua được hết, hoàn cảnh nào cũng thích ứng được cá. Hơn nữa cán bộ công nhân viên nhà nước cũng chỉ sống có thế, so sánh ra, xem chừng chúng tôi còn có vẻ “sung túc” hơn.

Khi đó, nhìn bề ngoài, lương bổng của cha mẹ tôi vẫn cấp phát hàng tháng như thường lệ, nhưng lại do “tổ chức” giữ hộ, đâu có đến tay ông bà, dùng bao nhiêu, mỗi lần đều phải có lời xin. Chúng tôi sống ờ bên ngoài, trong tay chẳng hề có một khoản thu nhập nào, nên Văn phòng trung ương quy định, mỗi đứa trẻ mỗi tháng được phát 25 đồng sinh hoạt phí, bà tôi mỗi tháng chỉ được 20 đồng, tiền đó đều là tiền xén từ lương của cha mẹ tôi ra. Hàng tháng cứ đến “kỳ hạn”, Văn phòng trung ương cho người mang xuống cửa Tây Trung Nam Hải, chúng tôi cứ tới đó mà lĩnh. Ở trong Trung Nam Hải cha mẹ chúng tôi biết rằng cuộc sống lang thang bên ngoài của chúng tôi chẳng dễ dàng gì, cho nên luôn luôn tìm mọi cớ, mọi cách cho chúng tôi được nhận thêm tiền. Khi bà nói, đông sang rồi, cần phải có áo bông cho bọn trẻ, khi lại bảo, khi đi chúng mang đủ chăn bông nên cần phải mua thêm, khi lại nói, thằng con trai ăn theo khẩu phần tem phiếu là không đủ được, nên tháng nào bà cũng bằng mọi cách, biến báo, đưa thêm được cho chúng tôi khi là tiền, khi là tem lương thực. Sống bên ngoài Trung Nam Hải, cứ hàng tháng, đến ngày là chị Đặng Nam tôi và tôi đến cửa Tây lĩnh tiền và tem phiếu. Có những lần, chúng tôi còn được thấy những tờ kê khai là những mẩu giấy kẹp trong đơn do chính tay mẹ tôi viết. Cầm mẩu giấy, nhìn những nét chữ đẹp đẽ bay bướm, quen thuộc của bà, tôi có cảm giác như được nắm bàn tay nóng hổi của mẹ, khiến tôi cảm động và càng thêm khôn nguôi nhớ mẹ. Thời gian dài dài một tý, lá gan của chúng tôicũng to lên, chúng tôi bắt đầu tìm mọi cách để lấy thêm được tý tiền, và đặc biệt là lợi dụng cơ hội nào để lấy được ít sách trong thư viện của gia đình. Chuyện này, lúc mới đầu, thái dộ của đối phương không tốt. Họ không thèm nhắc nhở gì tới, thế là chị tôi với tôi cứ kêu toáng lên ở bên ngoài cửa Tây Trung Nam Hải, ở lỳ đó dứt khoát không đi, làm cho đối phương cũng chẳng biết xoay xở ra sao. Do chúng tôi không sợ, cứ cãi nhau om sòm, rồi mẹ tôi ở bên trong, bọn tôi ở bên ngoài, hai bên phối hợp, cuối cùng ngoài tý tiền và tem phiếu mà chúng tôi được lĩnh, chúng tôi còn lấy được rất nhiều sách từ trong nhà đưa ra. Số sách này đã theo cùng chúng tôi, giúp chúng tôi sống qua được những ngày ngày đêm đêm cô độc gian nan sau đó.

Trong hai năm, cha mẹ tôi và chúng tôi chỉ có một cách thức gián tiếp duy nhất đó, giữ được một chút liên hệ từ bên trong và bên ngoài bức tường cao dầy của Trung Nam Hải.

Đến đây tôi đặc biệt dành một số dòng viết về bà tôi.

Bà tôi tên là Hạ Bá Can, là kế mẫu của bố tôi,, mẹ đẻ ra hai cô tôi, bà là con gái một người thuyền chài trên sông Gia Lang ở Tứ Xuyên, ông tôi tục huyền lấy bà và bà trở thành một thành viên duy nhất cho công việc lao động cũng như chèo chống gia đình. Ở quê hương tôi, trong vòng mười dặm, bà tôi nổi tiếng là một người năng nổ giỏi giang, bà biết nấu nướng, biết công việc đồng áng, biết vá may, biết chăn lợn chăn gà. Ông tôi mất sớm để lại một đống cô nhi quả mẫu, tất cả đều chỉ trông vào một bàn tay bà chống đỡ. Thời Quốc Dân đảng thống trị, bà đã phải mang trên đầu tội danh “Cả nhà là ϲộng sản”. Bà cất giấu tài liệu, sách báo cách mạng mà bố tôi và các đồng chí của ỏng mang về nhà. Bà nuôi dưỡng thương binh của đội du kích ϲộng sản ở núi Hoa Oanh, giúp đỡ con gái tham gia hoạt động bí mật của dáng ở địa phương. Trong lòng bà chỉ nghĩ có một điều: ϲộng sản là tốt. Năm 1940, khi Tứ Xuyên vừa được giải phóng, bà liền khoá nghiến cửa lại. xách một chiếc tay nải nhỏ bé từ quê lần thẳng Trùng Khánh, từ đó bà trở thành một thành viên quan trọng trong gia đình tôi. Bà tôi tới đã giúp cho mẹ tôi bao nhiêu công việc. Vì bận công tác, nên mẹ tôi đã giao tất cả trăm công nghìn việc trong nhà vào tay bà. Tôi và em trai Phi Phi đều do một tay bà nuôi lớn, sau này bốn đứa con của hai cô tôi cũng đều chỉ có một tay bà chăm sóc. Bà không những chi nuôi lớn chúng tôi mà còn nấu nướng, khâu giày dép, may vá quần áo cho chúng tôi.

Bà tôi với đôi chân nhỏ bé, không có văn hoá chữ nhất bẻ làm đôi cũng không biết, nhưng lại đặc biệt thông minh, bà tính nhẩm rất nhanh, hàng ngày nghe phát thanh tin tức, những việc lớn trong thời sự quốc tế và trong nước, hầu như bà nhập tâm hết. Khi chúng tôi đã nhớn nhao hơn một chút, bà dậy chúng tôi khâu nẹp áo, thùa khuyết đính khuy, bà dậy chúng tôi muối củ cải làm ca la thầu, bà đã dậy cho chúng tôi biết rất nhiều những điều thường thức trong đời sống. Ngày một ngày hai, mọi việc cứ tự nhiên ngấm vào trong đầu óc, chúng tôi đã học được ở bà tôi nhiều thứ, có thể kể không hết, nói không cùng. Bà tôi, nuôi ngần ấy đứa trẻ khôn lớn, làm bao nhiêu công việc gia đình, bố tôi, mẹ tôi vẫn thường hay nói: “Bà là “đại công thần” của gia đình chúng tôi”.​
 
7. Một lá thuyền đơn trong sóng cả (tiếp)

Lần này ra khỏi Trung Nam Hải, cha mẹ chúng tôi không ở bên mình, nhưng trong cái không may lại có cái may, chúng tôi còn có bà. Bà tôi vốn xuất thân từ một gia đình lao động, vốn sống già nửa đời người trong khốn khó, cái gì cũng đã trải qua, cái gì bà cũng không sợ, cái gì cũng chẳng quật ngã nổi bà. Tuy bà chẳng hiểu biết gì về chính trị, nhưng dù gặp phải cảnh biến động, xô dập bà cũng chẳng hoảng loạn. Ở Phương Hồ Trai, tổ chức của đường phố đấu tố bà, bà nhẫn nhịn chịu đựng sự chửi bới sỉ nhục, nhưng bà vẫn không hề sợ. Với cái gan dạ, cứng cỏi của bà, trong lòng bà chỉ có một ý nghĩ duy nhất: “Để chờ xem xem cái kết cục ra sao”. Có bà, những đứa trẻ chúng tôi, đặc biệt là tôi và Phi Phi có được điểm tựa trong cuộc sống. Có được bà, chúng tôi mới đủ khả năng vượt qua được cửa tử tương đối nhanh chóng, tương đối dễ dàng. Xung quanh chúng tôi đã không biết bao nhiêu con cái “băng đen” bị đuổi ra khỏi nhà, trong đó có rất nhiều đứa giống y như chúng tôi vậy, không có cách kiếm sống, không có kinh nghiệm sống, không biết nhóm bếp, không biết thổi cơm, không biết giữ gìn tiền nong, vật dụng. Có đứa được bữa sáng mà chưa có bữa tối, có đứa quần áo sờn rách không biết vá khâu, có đứa phải ở trong những gian nhà dột nát, xiêu vẹo, bẩn thỉu, bé bộn. Nhưng chúng tôi, chúng tôi có bà, có được chỗ dựa cuối cùng. Thực ra, bà không chỉ là chỗ dựa trong sinh hoạt của chúng tôi, mà còn là một cây cột vô giá, chống đỡ cho tinh thần chúng tôi. Thử nghĩ mà xem, nếu không có bà tôi, lũ chúng tôi làm sao có thể thuận lợi mà thích ứng với cuộc sống? Rất có thể là bữa cơm đầu tiên sau khi cút khỏi Trung Nam Hải chưa biết sẽ loay hoay ra làm sao. Bà tôi không những chăm lo đời sống cho cả gia đình tôi mà trong con người bà còn mang đầy lòng trắc ẩn, đồng cảm. Ngọc Điền, Đoá Đoá, Điểm Điểm con của gia đình La Thuỵ Khanh, rồi Kỳ Kỳ... con cái của gia đình Ô Lan Phu, đều rất yêu quý bà. Bọn họ đều là những đứa trẻ bị tống cổ ra khỏi nhà, đôi khi qua lại nhà tôi hoặc ở lại nhà tôi, đều được bà cơm nước tử tế. Trong lòng những đứa trẻ “không cha không mẹ” ấy, bà là bà chung của tất cả.

Sau khi tới Phương Hồ Trai, mặc dù chúng tôi còn được lĩnh ở chỗ cha mẹ chúng tôi một ít tiền, nhưng không biết tình trạng ấy còn kéo dài được bao lâu nữa, không biết rồi ra chúng tôi còn gặp những vướng mắc khó khăn gì nữa, vì thế, chúng tôi phải dè xẻn hết sức mình đức độ nhật. Bà biết làm cơm ngon mà lại không tốn kém, xào rau tuy chẳng có thịt mà chỉ có tý dầu, nhưng bà chỉ thêm chút ít tương đậu tự bà làm là đã thơm nức mũi. Các thứ xương xẩu mua về bà ninh một chảo to, có thể nấu rau, nấu mỳ và cũng có thể làm canh. Xào bát mỳ, ít thịt thôi, nhiều xì dầu một chút, rồi bỏ mỳ thái vào (loại mỳ sợi tươi, thường bán ở các cửa hàng lương thực), thêm chút tương ớt tự làm, mùi vị của bát mỳ xào đã khác hẳn. Phi Phi mười sáu tuổi, chạy nhảy, đang sức ăn sức lớn bà thương cháu, có lần muốn rằng tý thịt cho cháu ăn, nhưng Phi Phi không chịu ăn, bảo rằng thích ăn mỳ xào, đã có lúc, cậu ta cố ý ngày nào, bữa nào cũng ăn mỳ xào, ăn liên tục một tuần lễ liền.

Bà, Phi Phi và tôi ở nhà, có thể coi như được yên ổn. Còn các anh chị lớn đều phải đến trường đại học mà mình theo học để tiếp nhận đấu tố và quản chế, sống những ngày đầy bất trắc khốn khổ.

Chị cả Đặng Lâm bị phái tạo phản ở Học viện mỹ thuật trung ương đem nhốt lại. Khi trong viện, ngoài viện có bất kỳ sự kiện nào xảy ra, không kể là có liên quan tới chị hay không, chị đều bị lôi ra đấu tố, đấu tố người khác, chị cũng bị mang ra làm “bồi đấu”. Chị cả tôi vốn là người chân chất thật thà, đối với những lời thẩm vấn và nhục mạ của bọn tạo phản, chẳng bao giờ chị tôi cãi lại cũng chẳng tranh luận, chỉ kiên trì một điều, tức là bất kể vấn đề gì, đều chỉ nói: “Tôi không biết là tôi không biết”. Bọn tạo phản bắt chị “lao động cải tạo”, chị phải đi quét dọn tất cả các nhà xí trong Học viện mỹ thuật. Mỗi ngày một mình chị, quét dọn, lau chùi chu đáo đâu ra đấy, tất cả các nhà xí đều sạch bóng lên. Chị nhớ nhà lần, chị lo lắng cho em trai, em gái và bà ở nhà. Mỗi lần tôi đi thăm chị, chị hỏi hàng thôi hàng hồi, hỏi không biết mệt, chị luôn luôn muốn hỏi thêm điều này điều kia, chẳng muốn buông tha cho tôi về.

Anh Phác Phương ở trường cũng bị bọn tạo phản hạn chế tự do, không được về nhà. Anh thương nhớ người thân, anh đã tìm được cách hẹn với em gái Đặng Nam của mình đang ở trường đại học Bắc Kinh, hàng tuần anh em lại lẻn ra hồ Vô Danh gặp nhau một lần, bên hồ Vô Danh, nhân trời tối, không nhìn rõ mặt người, né tránh được sự giam giữ canh gác của bọn tạo phản, ra đây, hai anh em chuyện trò tâm sự, trao đổi tin tức cùng những suy nghĩ của mình. Anh tôi có nhiều hiểu biết về lịch sử và chính trị, và tương đối nhạy bén với tình hình, anh giảng giải và phân tích cho em tình thế nhiều mặt. Còn em gái anh lại có thể ra ngoài trường học, có thể về nhà, nên tình hình bên ngoài cũng nắm được nhiều, nên nhân lúc gặp được anh, cũng đem kể hết cho anh nghe. Chẳng còn nhớ nổi hai anh em đã gặp nhau trên bờ hồ Vô Danh bao nhiêu lần, chỉ nhớ được một điều rằng, từ bé đến lớn, giữa hai anh em chưa bao giờ từng có sự trao đổi, cảm thông về tư tưởng sâu sắc như thế.

Chị Đặng Nam tuy bị phê phán ở trường học, nhưng phái tạo phản lại cho phép chị được về nhà vào những chiều thứ bảy. Chị giỏi toán, lại biết cả tính toán ghi chép sổ sách, cho nên cái gia đình ở Phương Hồ Trai, việc nhà, việc tiền nong đều đo một tay chị quản. Có thể nói, trong hai năm đó, người quan tâm bậc nhất đến việc nhà, đến chị gái em trai phải tính là chị. Mỗi khi từ trường về nhà, bao giờ chị cũng kiếm mua được một thứ gì đó mang về theo. Muốn mua tý hoa quả cho các em, nhưng lại sợ đắt không mua nổi. Bình thường, chuối tiêu ba hào hai xu một cân (nửa ki-lô - N.D), đôi khi gặp chuối thứ phẩm, giá chỉ một hào hai một cân, chị sướng lắm, có giập nát một tý cũng chẳng làm sao, vội mua ngay một ít cho cả nhà “đỡ thèm”. Có một lần chị thấy người ta bán những thanh gỗ cũ nát, chị liền mua ngay một bó to, đường lại xa, về được đến nhà mệt bở hơi tai. Đừng có chê gỗ cũ nát, mua được về nhà là đắc dụng lắm, sau này anh tôi đã mang những tấm ván nát ấy ra, đóng cho gia đình một chiếc chạn bát.

Bà tôi chỉ lo việc nấu nướng hàng ngày, còn chị tôi quản tiền nong các thứ, còn tôi và Phi Phi, tuy cũng đã mười sáu, mười bảy tuổi, vẫn chẳng phải lo một cái gì, suốt ngày nằm khoèo đọc sách. Khi đó bên ngoài xã hội loạn kinh khủng, từ khi chúng tôi dọn nhà đến đây, gần xa đều biết rằng “lũ chó con” nhà Đặng Tiểu Bình ở đấy, nên nếu chúng tôi ra khỏi cửa, không bị bới móc thì cũng ăn gạch củ đậu, nhẹ nhất cũng là bị chỉ chỉ chỏ chỏ, thầm thì. Do chán ngán cái thế sự ấy, nên không có việc gì phải ra ngoài thì chúng tôi chỉ ngồi ru rú trong nhà, dứt khoát không ra đường. Như thế mà lại hay, nằm khoèo ở nhà có thể tĩnh tâm mà đọc sách, chúng tôi đọc bất kể sách gì chỉ cần tìm được, mượn được là đọc. Quả thật hồi ấy, chúng tôi đọc được không ít sách. Trường học đóng cửa, chúng tôi tự học bằng sách giáo khoa. Khi Cách mạng văn hoá bùng nổ. Phi Phi đang học năm thứ hai sơ trung, cậu ta rất thích toán lý hoá, thì trong thời gian ấy cũng đã tự học được hết chương trình sơ trung (cấp hai - N.D), Phi Phi còn rất thích đánh cờ vây, nên thường hay đặt chiếc bàn cờ bằng nhựa lên giường, tay cầm cuốn sách dạy đánh cờ vừa bày, vừa học, vừa đánh, gặp được những nước cờ hay, cậu ta xuýt xoa khoái trí lắm. Còn tôi, tôi lai thích văn hơn lý hoá, tất cả các sách văn học, lịch sử, chính trị, có gì đọc tuốt, đặt hết cả tâm tư đầu óc mình vào cái biển trí thức. Thật là:

Lánh trong gác xép thành nhất thống,

Mặc đời xuân hạ với thu đông.

Trong cái vòm trời nhỏ bé ở Phương Hồ Trai, được bà chăm sóc, được các anh chị thương yêu, dù có túng bấn hơn nữa, đói khổ hơn nữa, chúng tôi đều không sợ. Ý nguyện duy nhất của chúng tôi là có được một cuộc sống yên lành, ổn định. Nhưng, trong làn sóng cuồng nộ của Đại cách mạng văn hoá, kiếm đâu ra một đào nguyên tiên cảnh? Có một số phái tạo phản nghe nói lũ con cái nhà Đặng Tiểu Bình “đen” ở đây, nên ào ào xô tới. Bọn tạo phản tới đây còn làm những gì khác nữa nhỉ? Không đấu tố thì khám nhà, chúng muốn đánh đổ Đặng Tiểu Bình nhưng lại chẳng lục ra Đặng Tiểu Bình, thì đành đổ tức khí vào lũ con cái ông ta vậy. Bọn chúng đã tới, bất kể giờ giấc nào, bất kể ban ngày hay đêm tối, tuỳ thời tuỳ lúc, thích đến là đến. Khi chúng đến, là lại một hồi khẩu hiệu với đại phê phán, và bắt lũ “chó con” chúng tôi đứng cúi đầu mà nghe. Mỗi khi chúng đến là chúng gầm gừ, sỉ nhục bà tôi, một bà lão gần bảy chục tuổi trời, lại còn động chân động tay xô đẩy ấn giúi. Một khi chúng đến, là khám nhà, là lục lọi hòm xiểng, tiện tay chúng vứt đồ đạc tanh bành khắp nơi, giày xéo lên để tỏ vẻ “tinh thần tạo phản”. Một khi chúng đến, là dán đầy tường biểu ngữ và báo chữ to, đập vỡ cửa kính, sau đó lại hô khẩu hiệu dương dương tự đắc rút lui. Mới đầu, khi bọn tạo phản kéo tới, chúng tôi thường tức giận đến không giữ nổi mình, thậm chí còn cãi cọ, tranh luận với chúng. Có một lần thấy chúng đầy vẻ dã man, tàn bạo, Phi Phi tức điên người, bắt chúng phải nhặt những thứ chúng vất bừa bãi ở dưới đất lên. A! “Lũ chó con” của “băng đen” lại dám chống đối hử? Mấy tên to lớn, tay đeo băng đỏ định xông tới đánh Phi Phi, Phi Phi cũng đỏ mặt tía tai định liều chết với chúng. Tôi thấy lôi thôi quá, vội vàng ôm chặt Phi Phi lại, gào lên khóc lóc. Bọn tạo phản thấy những người hàng xóm đổ xô ra, đứng vây quanh xem, nên chúng cũng chẳng dám ra tay nhưng vẫn không ngớt miệng chửi bới om xòm. Sau đó nghĩ lại, thật may mà tránh khỏi được một tai hoạ, bởi Phi Phi có thể bị chúng đánh chết tươi như không. Trong Cách mạng văn hoá, tính mạng con người chẳng được lính là cái gì hết, huống hồ chúng tôi lại là “con cái của băng đen”.

Về sau, khám xét càng nhiều, chúng tôi cũng quen đi, nên cũng chả thèm tranh, thèm cãi với bọn chúng làm gì. Sau khi khám nhà, nhìn đống đồ đạc bị vứt ngổn ngang trên mặt đất, nhìn đống biểu ngữ, báo chữ to kín trời kín nhà, chúng tôi lại từng thứ, từng thứ một nhặt lại, dọn lại, biểu ngữ với báo chữ to cũng cứ từng tờ, từng tờ giật xé đi, trong lòng chúng tôi chứa chất đầy bi thương, đầy thê thảm, và cũng đầy thù hận với bọn tạo phản.

Chúng tôi ở nhà phải luôn luôn đối diện với sự khám xét lục lọi vào bất cứ giờ nào, lúc nào, các anh chị tôi ở trường học lại phải đối diện với những vạch tội, kiểm thảo không ngừng, không nghỉ, vô cùng, vô tận của bọn tạo phản. Chúng tôi là gia đình của tên đầu sỏ lớn thứ hai trong toàn quốc “đi theo đường lối tư bản”, là “lũ con cái băng đen”, đen sì đen sịt, là người để cho kẻ khác tuỳ tiện chửi bới, sỉ nhục bất kể giờ nào, lúc nào. Trên con người chúng tôi, không có chuyện nhân đạo, không có chuyện công lý, mà phê phán, nhiếc móc, khám nhà, là cơm ăn nước uống hàng ngày. Tất cả những cái đó, chúng tôi đều nín lặng mà chịu đựng. Nhưng chúng tôi không ngờ được rằng, những tai họa to lớn hơn vẫn còn đang chờ đợi chúng tôi ở phía sau.

Mùa thu năm 1967, nó vẫn chẳng khác gì thu trước, rồi nó lại ra đi y như năm trước. Xuân đi thu tới, thu đi đông tới, bước chân của thiên nhiên bao giờ cũng đến, đi như thế. Thiên nhiên cũng có những phép tắc cố định của nó, và cái loại phép tắc ấy không thể chuyển dịch, thay đổi bằng ý chí con người. Thế giới thiên nhiên đều có quy luật quy tắc của mình, vậy mà cái xã hội loài người bên cạnh chúng tôi đây, lại chẳng có quy luật, quy tắc nào cả? Không có những điều phải tôn trọng, nói gì đến những quy tắc cần tôn trọng. Xã hội loài người, lẽ nào lại chỉ có sự phóng túng, tuỳ tiện như thế? Lẽ nào lại chỉ nên hỗn loạn và tranh chấp như thế? Lẽ nào giữa những ngày thái bình thịnh trị như thế lại có những kẻ chỉ thích đấu tranh, nổi loạn không ngừng không nghỉ như vậy? Tại sao cái số phận con người lại trở nên nhu nhược, vô giá trị giữa cơn đại hồng thuỷ hỗn loạn thế ấy? Tại sao cái chính nghĩa, cái nhân đạo, cái công bằng, tôn nghiêm mà nhân loại vốn tôn sùng, tin tưởng, trong phút chốc bỗng bị đạp phá đến tan tành, nát bét? Tại sao những tín điều và công lý mà xã hội loài người tự đặt ra cho mình bỗng nhợt nhạt và phờ phạc ra như thế?

Trong gian phòng nhỏ tối tăm ở Phương Hồ Trai, tia nắng mùa đông rọi qua khe vách, cận kề với bức tường hậu cao ngất phía sau lọt vào nhà, ngọn gió bấc gào thét với những thanh âm nhọn hoắt ùa qua song cửa gỗ mọt nát thổi vào nhà. Chúng tôi mặc áo bông, quần bông, giầy bông to xù, ngồi vây quanh chiếc lò than nhỏ bé. Tôi đọc sách, Phi Phi lắp ráp máy vô tuyến điện, bà tôi với cặp kính lão vẫn mũi kim mũi chỉ vá vá víu víu. Hòn than trong lò cháy đỏ rực, chiếc ấm đun nước lặng lẽ nằm trên bếp than vang lên những tiếng xì xì. Cái lò than nhỏ bé ấy, có thể phát ra sức nóng tối đa của mình, đã đem tới cho chúng tôi chút ít hơi ấm giữa cõi thế gian mênh mang này. Năm 1967 trôi đi như thế, năm 1968 cũng như thế tới gần.

Mùa đông, mùa đông dài dằng dặc, mùa đông hàn lạnh. Ngày giá ngày rét, lòng con người còn giá rét hơn. Mọi người mong mỏi cho mùa đông mau chóng qua đi, ước ao mùa xuân sớm đến. Xuân sang, xuân đến bằng những bước chân lững thững, khoan thai. Đó là xuân sớm, đó là xuân sớm nơi phương bắc. Ngọn gió bấc lạnh thấu xương cũng đã qua đi, nhưng cỏ còn chưa xanh, mầm còn chưa nhú, giữa đất và trời vẫn là cảnh tiêu điều hiu hắt, tiết trời sẽ lạnh mùa xuân vẫn thấm sâu vào đáy lòng người.​
 
8. Thành lập Tổ chuyên án Đặng Tiểu Bình

Ngày 5.3.1968, Chu Ân Lai, Trần Bá Đạt, Khang Sinh, Giang Thanh, Diêu Văn Nguyên, Dương Thành Vũ (quyền Tổng tham mưu trưởng quân Giai phóng), Tạ Phú Trị, Diệp Quần (vợ Lâm Bưu. tổ trưởng tổ Cách mạng văn hoá trong toàn quân, chủ nhiệm văn phòng Lâm Bưu. thành viên tổ công tác Quân uỷ trung ương), Ngô Pháp Hiến (phó Tổng tham mưu trưởng quân Giải phóng kiêm tư lệnh không quân), Uông Đông Hưng... tất cả mười người, viết và gửi Mao Trạch Đông, Lâm Bưu một bản báo cáo, nói rằng: Có rất nhiều tài liệu tố cáo, vạch tội Đặng Tiểu Bình, không có nơi cất giữ, và đề nghị cho lập một tổ nhỏ nằm trong “Tổ chuyên án Hạ Long”, với nhiệm vụ thu thập những tài liệu có liên quan tới “vấn đề” Đặng Tiểu Bình. Mao Trạch Đông son phê: “Có thể”. Lâm Bưu duyệt lại cũng tỏ ra tán thành. Điều này có thể nói rằng: Tổ chuyên án Đặng Tiểu Bình đã chính thức được thành lập.

“Tổ chuyên án Lưu Thiếu Kỳ” đã sớm được thành lập từ trước đây một năm, đến nay Tổ chuyên án Đặng Tiểu Bình mới được thành lập chứng tỏ rằng, trong tình thế mới, Mao Trạch Đông đồng ý việc tăng cường, đi sâu thẩm tra Đặng Tiểu Bình hơn nữa.

Ngày 16.5.1968, Tổ chuyên án Đặng Tiểu Bình họp tại hội trường lớn. Những ông kễnh của Cách mạng văn hoá phụ trách công tác chuyên án là Khang Sinh, Lâm Bưu cùng phe cánh thân thiết là Hoàng Vĩnh Thắng (Hoàng Vĩnh Thắng: Tổng tham mưu trưởng quân Giải phóng) đều có mặt trong cuộc họp. Người nói chủ yếu ở đây là Khang Sinh. Ông ta nói:

- Vấn đề Đặng Tiểu Bình không thể trực tiếp thẩm vấn được, nên phải thẩm tra bên trong, điều tra bên ngoài để tìm chứng cớ. Ông ta còn nói: chuyện quá khứ của Đặng Tiểu Bình cho đến nay vẫn còn chưa làm rõ như việc trốn chạy khỏi quân đoàn Hồng quân số 7 khi lâm trận, vấn đề tiêu cực trong việc chống Vương Minh hồi chỉnh huấn ở Diên An, rồi quan hệ với Bành Đức Hoài, rồi thực hiện đường lối của Vương Minh ở Thái Hàng Sơn, và năm 1962, ở Mat-xcơ-va đã cổ vũ cho chuyện “tam hoà nhất thiểu” (Đoàn kết ba phái, cô lập một phái. Ba phái ở đây bao gồm: 1. Сộng sản; 2. Quốc dân đảng (Tôn Văn tức Tôn Trung Sơn); 3, Nhóm quân phiệt miền Bắc (Trương Học Lương), còn một phái kia là Nhật Bản. Ở đây có thể nói một cách thông thường là “Đoàn kết ba phái, chống Nhật” - N.D). Nói tóm lại về quá khứ đã đi theo đường lối của Vương Minh, về tổ chức đã lôi kéo bè cánh, thu nạp bọn đầu hàng phản bội, về quân sự đã cướp quân phản đảng.

Bài nói của Khang Sinh, được coi như đã định xong cương lĩnh, chính sách. Sau đó, ông ta mở rộng Tổ chuyên án bằng một lực lượng hùng hậu lên tới chín người. Nhưng cũng thật lạ kỳ, vì Đặng Tiểu Bình là tên đầu sỏ số hai trong đảng “theo tư bản”, nhưng Tổ chuyên án về ông, lại đặt nằm gọn trong Tổ chuyên án Hạ Long. Trong Cách mạng văn hoá, những loại chuyện không sao giải thích được kiểu đó, nhiều vô kể.

Thành lập Tổ chuyên án Đặng Tiểu Bình, nhưng bản thân Đặng Tiểu Bình lại không hề biết.

Ngày 21.5.1968, ông viết thư cho Uông Đông Hưng đề nghị được gặp Chủ tịch, nếu như không gặp được Chủ tịch thì mong được gặp Uông Đông Hưng. Uông Đông Hưng đem việc đó báo cáo lại với Mao Trạch Đông, Mao Trạch Đông chỉ thị: Đem đọc thư của Đặng Tiểu Bình trong cuộc hội ý của Ban Cách mạng văn hoá trung ương, rồi bàn bạc một chút, tranh thủ ý kiến mọi người xem xem có nên gặp nói chuyện với Đặng Tiểu Bình không. Mao Trạch Đông lại tranh thủ ý kiến “mọi người”, song Lâm Bưu và “mọi người” trong Ban Cách mạng văn hoá trung ương về căn bản là không thể nói chuyện với Đặng Tiểu Bình được. Yêu cầu của Đặng Tiểu Bình bị cự tuyệt. Nhưng, trong tình thế Đặng Tiểu Bình đã bị đánh đổ hoàn toàn, mà Mao Trạch Đông vẫn để “mọi người” bàn bạc về lá thư của Đặng Tiểu Bình, chứng tỏ rằng Mao Trạch Đông vẫn chưa quên Đặng Tiểu Bình, vẫn còn chú ý tới Đặng Tiểu Bình ở một mức độ nào đó. Đối với Lâm Bưu, Giang Thanh v.v... mà nói, điều đó không phải là không có chuyện gì.

Đúng vậy, cho đến khi đó, Mao Trạch Đông vẫn có ý cùng phê phán Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình nhưng có phân biệt đối xử, đó là sự sắp xếp có ý thức sau khi đã suy nghĩ rất chín. Nhưng sự sắp xếp này của Mao Trạch Đông lại khiến cho Lâm Bưu, Trần Bá Đạt, Giang Thanh v.v., cùng những ông kễnh khác ở Ban cách mạng văn hoá chẳng vừa lòng chút nào, thậm chí còn đầy thắc thỏm trong lòng.

Lâm Bưu cùng cả đám người ngựa của Ban cách mạng văn hoá cùng xuất trận, họ ra lệnh cho Tổ chuyên án phải tăng cường, đẩy mạnh việc truy tìm chứng cứ, cần phải đóng đinh chốt chặt “vấn đề” Đặng Tiểu Bình.

Tổ chuyên án Đặng Tiểu Bình liền phèng phèng chiêng trống rầm rộ ra quân. Bọn họ tìm tòi, thu thập chứng cứ về Đặng Tiểu Bình ở khắp nơi với “nhiệt tình công tác” tối đa, đồng thời đề nghị Ban tổ chức trung ương cho xem hồ sơ của Đặng Tiểu Bình. Sau khi đọc kỹ hồ sơ, họ đều cảm thấy rằng, nếu chỉ căn cứ vào hồ sơ tìm tòi được thì khó có thể định tội được, nhưng trung ương lại không cho phép thẩm vấn trực tiếp làm sao đây” Thế là họ nghĩ ngay ra được một điều, họ bắt Đặng Tiểu Bình viết về lịch sử quá khứ của mình, bản tự truyện đó theo yêu cầu của Tổ chuyên án phải viết bắt đầu từ khi lên tám tuổi, và phải bảo đảm đạt được: thứ nhất, tường tận, tỷ mỷ. Thứ hai: nội dung chính xác. Thứ ba: viết thật rõ về những nhân chứng trong quá khứ và cả địa chỉ cư trú hiện nay của họ. Thứ tư: viết đến đâu giao nộp đến đấy. Thứ năm: hạn cuối cùng là đầu tháng năm phải xong. Quyết định này sau khi được Hoàng Vĩnh Thắng duyệt xong, sẽ do chủ nhiệm Văn phòng trung ương Uông Đông Hưng chuyển giao cho Đặng Tiểu Bình.

Nhận được chỉ lệnh viết tự truyện, bố tôi vẫn chẳng hay biết gì, mà vẫn cứ tưởng rằng, đó là do Trung ương yêu cầu. Ông không hề từ chối, thành thực cầm lấy bút, phục xuống bàn, bắt đầu viết ngay. Sau nửa năm bị giam cầm, trong nỗi cô đơn đau đáu, ông đã trấn tĩnh lại, nên đối với vấn đề Cách mạng văn hoá đã đánh đổ hạ bệ ông, đối với những vấn đề chưa kịp suy nghĩ thấu đáo, chín chán giữa cơn hỗn loạn ngất trời, chắc chắn ông phải đánh giá suy tư nhiều.

Từ năm 18 tuổi tức là từ năm 1922 cho đến nay đã 45 năm hoàn toàn đi theo cách mạng. Trước giải phóng, quân địch thì hiểm độc, việc quân lại gấp gáp, sau giải phóng, trên vai gánh vác chức vụ nặng nề, bận rộn với trăm công nghìn việc, chẳng còn thì giờ đâu mà nghĩ lại chuyện lớn chuyện nhỏ xưa cũ mà mình trải qua, nên lại càng khó có thể nói đến việc đánh giá, tổng kết. Nay người ta bắt ông viết tự truyện - dù người ta xuất phát từ mục đích gì, suy nghĩ xong, ông sẽ tự nguyện viết. Trong không gian tĩnh lặng, ông lựa chọn, suy nghĩ kỹ lại để đánh giá và tổng kết cuộc đời mình.

Bắt đầu từ ngày 20.6.1968 đến ngày 5.7.1968, trong vòng 15 ngày bố tôi viết tự truyện của mình: Tự thuật của tôi. Trong bản “Tự thuật” dài hai vạn sáu nghìn, năm trăm chữ, bố tôi đã nhớ lại ngày ra đời của ông, gia đình ông, ngày ông dạy học ở trường tư thục, và người cha mà có đến mấy chục năm ông chưa nghĩ tới, ông nhớ lại ngày từ Trùng Khánh sang Pháp vừa làm vừa học lớp dự bị, cùng những việc từ Tứ Xuyên xuất dương sang Pháp học hành, ông nhớ lại đời sống khổ cực vừa đi làm thuê, vừa theo học ở Pháp, ông nhớ lại những ngày bắt đầu tham gia cách mạng, cùng cuộc sống cách mạng và những đồng chí ở Pháp của mình, ông nhớ lại những hoạt động cách mạng bí mật vô cùng hào hùng ở Thượng Hải, nhớ lại ngày xây dựng quân đoàn Hồng quân số 7 và số 8 cùng với những cuộc chiến đấu, thất bại và trưởng thành của nó. Ông nhớ lại chẳng đường gập ghềnh của khu Xô-viết trung ương ở Giang Tây cùng lịch trình trường chinh của nó, nhớ lại chiến trường trong cuộc chiến tranh Kháng Nhật và những chiến hữu ở sư đoàn 129, ông nhớ lại chiến dịch Đại Biệt sơn, chiến dịch Hoài Hải, chiến dịch vượt sông và giải phóng vùng Giang Nam, ông nhớ lại những nỗ lực trong 17 năm xây dựng nước Trung quốc mới, và công việc 10 năm của một Tổng bí thư đảng...

Giở lại những trang “Tự thuật” ấy, có thể cảm thấy một cách rõ ràng sự cẩn thận và chu đáo của bố tôi. Trong hồi ký của ông, mỗi phút giây lịch sử đều như được tái hiện trong đầu óc ông. Ông đã rành mạch lường thuật mỗi dấu chân in của mình, ông thực sự cầu thị, trả lời gãy gọn, khúc chiết mỗi vấn đề mà người khác đề xuất nghi vấn và trách móc mình, khi nói về bản thân mình, ông không bàn về công tích của ông mà chỉ nói qua loa. Đồng thời, giống như những người mắc sai lầmlúc đó, cùng với việc nhớ lại, “nói qua”, “không thể” không thêm một lần kiểm điểm trái với lòng mình. Đồng thời với việc kiểm điểm, với sự nhạy bén về chính trị, bố tôi đã cảm nhận được sự “phân biệt đối xử” cực kỳ tế nhị và thấu đáo của Mao Trạch Đông. Và với sự từng trải về chính trị trong mấy chục năm, ông đã hiểu thấu đáo, phân minh, tính phức tạp cũng như tính tráo trở tồn tại trong sự vật. Trong tình thế nguy cơ về chính trị lúc ấy, ông chỉ yêu cầu có một điều duy nhất: lưu lại trong đảng, cố giữ lấy đầu mối cuối cùng trên chính trường. Ông biết rằng, chắc chắn Mao Trạch Đông sẽ đọc bản “Tự thuật” này, đo đó, ông viết ở nơi cuối cùng: Mong mỏi lớn nhất của tôi là vẫn lưu lại trong đảng, làm một người đáng viên bình thường. Tôi đề nghị, trong thời gian thích hợp nào đấy, sẽ giao cho tôi một công tác nho nhỏ, tham gia vào công việc mà sức lực mình có thể đảm đương được, cho tôi một cơ hội hối lỗi làm lại từ đầu”.​
 
8. Thành lập Tổ chuyên án Đặng Tiểu Bình (tiếp)

Là một đảng viên lão thành với hơn bốn ngươi tuổi đảng, dù cho trong thời khắc gian nan nhất, ông đều không quên trách nhiệm của bản thân mình. Ông chưa bao giờ vì sự oan khuất nhất thời mà đánh mất lòng tin, chưa bao giờ để mất đi hy vọng, chưa bao giờ vứt bỏ tất cả những cơ hội có thể tranh thủ được.

Đồng thời với việc bố tôi phục xuống bàn, lựa chọn, viết “Tự truyện”, thì Tổ chuyên án Đặng Tiểu Bình cũng chẳng được nhàn hạ gì, họ cũng bắt đầu khởi thảo “Tội trạng” và “báo cáo tổng hợp” về Đặng Tiểu Bình. Lâm Bưu và cả lũ Cách mạng văn hoá trung ương, đối với việc đánh đổ hoàn toàn Đặng Tiểu Bình cũng có thể gọi là: lòng như lửa đốt, “văn phòng Hai” cấp trên của Tổ chuyên án Đặng Tiểu Bình, cũng chính lại là văn phòng số Hai của Tổ chuyên án trung ương do tập đoàn Lâm Bưu khống chế, cơ hồ như cứ cách vài hôm lại điện thoại tới thôi thúc, giục hỏi sự tiến triển của tình hình. Khang Sinh, trùm trưởng trong việc chỉnh đốn mọi người, cũng mở hết hội nghị lớn, lại đến hội nghị nhỏ, chuyên đề nghiên cứu, tính toán án tình.

Trong Cách mạng văn hoá, nếu một người chỉ bị đánh vì sai lầm “theo tư bản” hoặc sai lầm “đường lối”, cũng khó đánh đổ lắm, hoặc có bị đánh đổ cũng “lật án” như chơi. Nhất định còn phái có “vấn đề lịch sử” như phản bội, gián điệp v.v... thì mới gọi là “tội trạng” đã được đóng bằng đinh sắt, có thể sau khi đánh đổ mới đời đời không ngóc đầu dậy được. Nhưng Đặng Tiểu Bình lại chưa hề bị địch bắt, chưa từng rời đảng, lục lọi tứ tung, vẫn chỉ là vấn đề “hiện tại”.

Về sau, nghĩ tới chuyện này, ngay đến cả bố tôi cũng nói một câu cảm khái: “Cái thân tôi quả thật là may, đánh trận không “hề bị thương, hoạt động bí mật không hề bị địch bắt”.

Không có vấn đề quá khứ, cũng phải tìm cho ra vấn đề quá khứ, Tổ chuyên án Đặng Tiểu Bình có nhiệm vụ phải trăm phương ngàn kế, vắt cho cạn kiệt tim óc mà tìm. Ngày 18.6.1968, trong hội nghị báo cáo về “tội trạng” của Đặng Tiểu Bình, Giang Thanh nói: “Hồ sơ của Đặng Tiểu Bình, ta phải phân tích cho chu đáo tỷ mỷ, con người này rất có thể là kẻ phản bội. Tôi vẫn đang phân tích hồ sơ của lão ta, cùng đấu tranh với các đồng chí. Quá khứ và hiện tại của lão phải gom vào làm một”.

Sau hội nghị đó, Khang Sinh gọi tổ trưởng Tổ chuyên án Đặng Tiểu Bình tới, giao hơn mười tập tài liệu do chính ông ta đã cất giữ, cùng với ảnh và “tài liệu khai báo” của những đồng chí cũ ở quân đoàn Hồng quân số 7 thời đó. Tổ chuyên án vùi đầu vào làm việc, có đến một tháng rưỡi trời, xào xáo, thêm dấm thêm ớt, viết ra được bản “Báo cáo tổng hợp” về “tội trạng” của Đặng Tiểu Bình.

Ngày 25.7.1968 toàn thể bọn họ báo cáo với Khang Sinh, Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Diệp Quần, Lý Tác Bằng một cách hết sức tường tận tại đại sảnh phía đông của hội trường lớn. Khang Sinh ra chỉ thị, nói:

- Xem ra tài liệu thì không thiếu, nhưng vấn đề then chốt là vận dụng như thế nào, phấn về quá khứ còn quá yếu.

Ngô Pháp Hiến nói, vấn đề vào đảng của Đặng Tiểu Bình khó có thể đối chứng được bởi người giới thiệu vào đảng đều đã chết.
Sau cuộc họp, Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng và Tổ chuyên án về lầu bốn, khách sạn Kinh Tây, tiếp tục chiến đấu, cẩn thận nghiên cứu, sửa chữa lại từ đầu, cho đến rạng sáng ngày hôm sau, bản “báo cáo tổng hợp” mới gọi là hoàn chỉnh: “Tội trạng chủ yếu của Đặng Tiểu Bình, kẻ cầm quyền khác, lớn nhất trong đảng, đi theo đường lối tư bản chủ nghĩa”. Toàn văn gồm bảy phần bao gồm hơn một vạn năm ngàn chữ.

Tổ chuyên án đưa ngay cái “thành quả” không dễ dàng mà có được đó lên “Văn phòng Hai”. Không đầy 24 giờ sau, bản báo cáo đã được Khang Sinh, Hoàng Vĩnh Thắng, Diệp Quần, Lý Tác Bằng (Tổng tham mưu trưởng Giải phóng quân kiêm Chính uỷ hải quân), Khưu Hội Tác (phó Tổng tham mưu trưởng Giải phóng quân kiêm Chính uỷ hải quân), Trương Tú Xuyên (phó Uỷ viên chính trị Hải quân Giải phóng) và một số nơi khác thẩm duyệt, Khang Sinh phê: “Tranh thủ, nhanh chóng trình lên Chủ tịch, phó chủ tịch Lâm Bưu và trung ương cùng các đồng chí ở Ban Cách mạng văn hoá trung ương để xin duyệt. Cho in 52 bản”. Hai ngày sau, văn phòng Khang Sinh gọi điện thoại nhiều lần tới Tổ chuyên án Đặng Tiểu Bình, nói rằng cụ Khang Sinh rất vừa lòng với bản báo cáo.

Tuy nói Khang Sinh tỏ ý “vừa lòng” với bản báo cáo, nhưng Tổ chuyên án Đặng Tiểu Bình vẫn cảm thấy trọng lượng “vấn đề” quá khứ, còn chưa đủ. Bọn họ lại thêm giờ, thêm ca, truy tìm những điểm “tình nghi” và “lọt lưới”, sau khi nghiên cứu vài ba bốn lần, trong lịch sử cách mạng dài tới hơn bốn mươi năm của Đặng Tiểu Bình, nơi duy nhất có thể làm “đột phá khẩu” thì chỉ có việc gọi là “đào ngũ” hồi ở quân đoàn Hồng quân số bảy là dùng được. Phải tiếp tục đào bới vấn đề này, moi ra vấn đề lịch sử quá khứ mới mong định tội, đập chết Đặng Tiểu Bình được.
Ngày 11.9.1968, Tổ chuyên án Đặng Tiểu Bình viết báo cáo cho Hoàng Vĩnh Thắng, Diệp Quân, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác đề nghị bắt Đặng Tiểu Bình viết “khai báo bổ sung” thêm về hai lần “đào tẩu” khỏi quân đoàn Hồng quân số 7 vào hai năm 1930 và 1931 để trở về Thượng Hải, mới có thể làm rõ được vấn đề quá khứ của Đặng Tiểu Bình. Hoàng Vĩnh Thắng bút phê đề nghị Uông Đông Hưng giúp đỡ, Uông Đông Hưng lại kính chuyển đề nghị Vương Lương Ân, phó chủ nhiệm Văn phòng trung ương lấy danh nghĩa Bộ Chính trị buộc Đặng Tiểu Bình phải viết lại lần nữa.

Sau khi nhận được thông báo của Văn phòng trung ương, Đặng Tiểu Bình lại thêm một lần nữa viết lại rất tường tận, rất thực sự cầu thị, về tình hình có liên quan đến quân đoàn Hồng quân số 7 và hai lần từ quân đoàn Hồng quân số 7 về Thượng Hải báo cáo tình hình với trung ương. Bản viết đó, lại thêm một lần nữa làm cho Tổ chuyên án hẫng hụt và thất vọng, không mò vớt được một cọng rơm nào. Cùng ngày với việc viết bản báo cáo nói trên, Tổ chuyên án còn viết bản báo cáo thứ hai, đưa ra một yêu cầu rất vô lý với Chu Ân Lai, đòi thủ tướng “giúp họ chỉ đạo chút ít”, để tìm cho được chứng cứ chính xác về vấn đề quá khứ của Đặng Tiểu Bình. Trong “Báo cáo” có viết: Về vấn đề vào đảng, Đặng Tiểu Bình khai báo rất mâu thuẫn, thứ nhất là thời gian vào đảng không thống nhất. Thứ hai là viết về những người giới thiệu vào đảng rất mơ hồ, do đó mà ngờ rằng Đặng Tiểu Bình là đảng viên giả lộn sòng vào đảng. Tổ chuyên án còn đòi hỏi Chu Ân Lai thêm một điều nữa là, yêu cầu ông cung cấp cho họ những đầu mối về những điểm “nghi vấn” đó. Theo nhận định của họ, vào hai năm 1930 và 1931, Đặng Tiểu Bình đã từ quân đoàn Hồng quân số 7 hai lần “ra trận bỏ trốn” về Thượng Hải, hoàn toàn không đưa ra đề nghị báo cáo công tác với trung ương, vì còn theo đuổi mục đích khác, và còn từ không bịa ra có mà suy đoán rằng: “Trong tự thuật của Đặng Tiểu Bình có viết, năm 1931 ở Thượng Hải, trung ương có cử ông ta đi Vu Hồ tỉnh An Huy để kiểm tra công tác của tỉnh uỷ, sau khi đến Vu Hồ, vì tỉnh uỷ đã bị phá nên lập lức quay về Thượng Hải. Chúng tôi cảm thấy rằng tỉnh uỷ An Huy bị phá sớm như thế, nên rất đáng nghi rằng, Đặng Tiểu Bình đã đem bán tỉnh uỷ cho địch”.

Văn kiện này trước hết là báo cáo với Hoàng Vĩnh Thắng, Diệp Quân, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khang Sinh v.v..., sau khi được các ông kễnh phê duyệt xong, mới gửi tới Chu Ân Lai, làm áp lực buộc Chu Ân Lai phải trả lời. Đối với những yêu cầu vô lý đó, Chu Ân Lai phớt lờ, không thèm để mắt tới. “Báo cáo” đó sau khi gửi tới Chu Ân Lai liền thành đá chìm đáy biển, chẳng thấy tăm hơi tin tức nào.

Bị vấp đầu vào tường ở chỗ Chu Ân Lai, Tổ chuyên án vẫn chẳng chịu cam lòng, vẫn cứ tìm đi lục lại, cuối cùng, sau khi nhặt nhạnh vá víu, cũng đã moi ra được một số “tài liệu tố cáo” từ những lão đồng chí nguyên là quân đoàn Hồng quân số 7, họ vội vã viết thành một bản “chuyên đề tội trạng” dâng lên cấp trên để tâng công.

Trong khi Tổ chuyên án Đặng Tiểu Bình khua chuông gõ mõ tiến hành điều tra “tội trạng” của Đặng Tiểu Bình, thì “Văn phòng 1, Văn phòng 2” của Ban chuyên án trung ương cũng tăng nhanh tốc độ công tác đối với những người mà họ quản lý thuộc loại “băng đen”, “theo tư bản”, và các “tội trạng” khác, họ lấy thêm chứng cớ và sắp xếp thứ hạng tội lỗi. Nguyên nhân việc phải sắp xếp thứ hạng tội trạng cho nhanh chóng là vì, trung ương đã quyết định triệu tập hội nghị toàn thể lần thứ mười hai khoá 8 và đại hội đại biểu toàn quốc khoá 9 của đảng.

Bè cánh của Lâm Bưu là Hoàng Vĩnh Thắng v.v... triệu tập họp văn phòng hai của Ban chuyên án trung ương dưới quyền quản lý của ông ta, chuyên đề nghiên cứu về vấn đề định án cho 15 đối tượng dưới quyền quản lý của họ. Tổ chuyên án Đặng Tiểu Bình tung ra bản “Chuyên đề tội trạng của Đặng Tiểu Bình” và được Hoàng Vĩnh Thắng ngợi khen. Nhưng Ngô Pháp Hiến lại lấy làm chẳng vừa lòng, nói: Vấn đề kết bé kéo cánh thu nạp bọn đâu hàng phản bội, và bao che cho bọn xấu là rất quan trọng, cần phải mau mau chóng chóng mà làm.

Ngày 22 và ngày 24.9.1968, “Văn phòng 1”, “Vãn phòng 2” của Ban chuyên án trung ương, luôn luôn có người hội họp ở đại sảnh phía đông của hội trường lớn, họ họp để nghiên cứu định thứ hạng của những đối tượng chuyên án trọng yếu mà họ quản lý bao gồm 14 người thuộc “Văn phòng 1” và 8 người của “Văn phòng 2”. Trong đó, họ xếp Lưu Thiếu Kỳ vào hạng kẻ cầm quyền lớn nhất trong đảng đi theo đường lối tư bản, và họ vu cáo ông là “phản bội”, “gián điệp”, “giặc cướp”. “Vấn đề” Đặng Tiểu Bình cũng bị nhận định là “ẩn náu tương đối sâu” và được gán cho cái tên là: kẻ cầm quyền khác, lớn nhất trong đảng đi theo đường lối tư bản. Làm việc đến chán chê mê mỏi, tốn hết sức lực của chín trâu hai hổ mà “vấn đề” Đặng Tiểu Bình vẫn chỉ là “hiện tại”. “Vấn đề quá khứ,, của ông thực tế là “ẩn náu” quá sâu thật.​
 
Nước ta cũng có Võ Văn Kiệt mà, đọc sử tàu cũng nên đọc sử ta, sau 1975 thì ông Kiệt gần như họ Đặng chỉ thiếu mỗi binh quyền để triệt để cải cách.
 
Top